Bản án 191/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 191/2020/HS-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 203/2020/HSST ngày 19 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 213/2020/QĐXX– HS ngày 27 tháng 8 năm 2020, đôi vơi bi cao:

Trần Ngọc B, sinh ngày 01/01/1978 tại tỉnh Đ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khóm A, phường L, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở trước khi bị bắt: Số 228 đường P, Phường H, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 3/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Trần Văn L (đã chết) và bà Lê Thị H, sinh năm: 1954; bị cáo là con thứ 3 trong gia đình; Có 01 con tên Phạm Hoàng T, sinh năm: 2001. Tiền án, tiền sự: Không có.

Nhân thân: Năm 2018, bị TAND TP Vũng Tàu ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 12 tháng.

Bị cáo bị bắt ngày 29 tháng 4 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP Vũng Tàu (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 29/4/2010, tại số nhà 228A đường P, Phường H, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cơ quan chức năng đã bắt quả tang Trần Ngọc B đang tàng trữ trai phép chất ma túy, cơ quan chức năng thu giữ 01 gói nylon hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và 01 điện thoại Vivo có số Imel: 864835037229113.

Quá trình điều tra, B khai B sử dụng ma túy đá từ năm 2018, số ma túy bị thu giữ là do B mua của một trẻ em tại Xóm L, phường N, thành phố V với giá 300.000 đồng để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang như trên.

Tại Bản kết luận giám định số 202/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 06 tháng 5 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu,kết luận: Mẫu chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín gửi đến giám định có khối lượng 0,3735 gam, là ma túy, loại Heroine.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa B không có ý kiến, khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên và tại phiên tòa B đồng ý nội dung kết luận giám định nêu trên.

Bản cáo trạng số 206/CT-VKS ngày 18/8/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Trần Ngọc B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trần Ngọc B đã khai nhận toàn bộ hành vi của bị cáo như đã nêu trên. Bị cáo đã thấy hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn hối hận, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình, xã hội.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Trần Ngọc B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo B từ 12 tháng đến 18 tháng tù; đề nghị xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma tuý là tang vật vụ án; trả lại điện thoại 01 điện thoại Vivo có số Imel: 864835037229113. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc B đã khai nhận toan bô hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật bị thu giữ, kết luận giám định và phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận hành vi cất giữ khối lượng 0,3735 gam, là ma túy, loại Heroine của bị cáo B với mục đích để sử dụng cho bản thân đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu truy tố bị cáo B với tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Xét hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến việc quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, hành vi của bị cáo là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ ma túy gây tác hại vô cùng nguy hiểm đến sức khỏe, tinh thần của người sử dụng; tác động theo chiều hướng tiêu cực đến đời sống xã hội, là mầm mống của những căn bệnh hiểm nghèo; dễ dẫn dắt người sử dụng ma túy vào con đường phạm tội. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân xấu cụ thể là năm 2018, bị TAND thành phố Vũng Tàu ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 12 tháng, sau khi đi cai nghiện về bị cáo không những không lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân từ bỏ ma túy để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội mà vẫn tiếp tục sử dụng ma túy để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã bất chấp thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo buộc bị cáo phải cách ly ra ngoài đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất mức độ hành vi mà bị cáo đã thực hiện nhằm giáo dục riêng bị cáo, đồng thời bảo đảm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo tốt, làm người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Vật chứng trong vụ án:

Đối với 01 gói ma túy theo kết luận giám định niêm phong số 202/GĐMT- PC09(Đ2) ngày 06 tháng 5 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có khối lượng 0,3735 gam, là ma túy, loại Heroine, đây là tang vật trong vụ án là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại Vivo có số Imel: 864835037229113 của bị cáo B không sử dụng vào việc liên lạc để mua ma túy nên không phải là phương tiện phạm tội không phải là vật chứng trong vụ án, nên cần trả lại 01 điện thoại Vivo có số Imel:

864835037229113 cho bị cáo.

[6] Các vấn đề khác: Đối với một trẻ em tại Xóm L, phường N, thành phố V đã bán ma túy cho B do chưa rõ lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bô: Bị cáo Trần Ngọc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điêm s khoản 1 Điêu 51 Bô luât hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc B 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/4/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy theo kết luận giám định niêm phong số 202/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 06 tháng 5 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có khối lượng 0,3735 gam, là ma túy, loại Heroine.

Trả lại 01 điện thoại Vivo có số Imel: 864835037229113 cho bị cáo.

Vật chứng nêu trên Chi cục Thị hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 199/BB.THA ngày 07/9/2020.

3. Về án phi : Bị cáo Trần Ngọc B phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đông ) án phí hinh sư sơ thâm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo đươc quyên khang cao ban an trong thơi han 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu câu Toa an nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 191/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:191/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;