Bản án 190/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 190/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 360/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 214/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 160/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Bá N, sinh năm 1984; Địa chỉ: Thôn 7, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Hoàng Thị T1, sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn 7, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 11 tháng 5 năm 2020 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, anh Trần Bá N (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 91 ngày 12 tháng 12 năm 2018. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống tại Thôn 7, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng thường phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường xảy ra cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã ly thân từ đầu năm 2020 đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Hoàng Thị T1.

Về con chung: Anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1 có một con chung tên là Trần Tuệ A sinh ngày 25/01/2019. Hiện con đang khỏe mạnh, phát triển bình thường và do chị Hoàng Thị T1 nuôi dưỡng. Khi ly hôn anh đề nghị được nuôi con. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, anh đề nghị để anh và chị Hoàng Thị T1 tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1 không có tài sản chung, anh không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.

Trong bản tự khai đề ngày 15 tháng 6 năm 2020 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, chị Hoàng Thị T1 (bị đơn) trình bày:

Chị Hoàng Thị T1 thừa nhận lời trình bày của anh Trần Bá N về quan hệ hôn nhân và con chung là đúng. Nay anh Trần Bá N đề nghị ly hôn, chị đồng ý ly hôn vì chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài. Hiện con đang khỏe mạnh, phát triển bình thường và do chị nuôi dưỡng nên khi ly hôn chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi con. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung chị có quan điểm như anh Trần Bá N đã trình bày.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng, bị đơn chưa tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng. Về việc giải quyết nội dung vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Cho ly hôn giữa Anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1. Giao con chung tên là Trần Tuệ A sinh ngày 25/01/2019 cho chị Hoàng Thị T1 trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1 tự thỏa thuận giao nhận cho nhau. Về tài sản chung vợ chồng do Tòa án không thụ lý giải quyết khi ly hôn nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về các tài liệu, chứng cứ và tình tiết của vụ án:

Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, các tình tiết mà các bên đã thống nhất: Về quan hệ hôn nhân, con chung và lý do đề nghị Tòa án giải quyết các quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà đương sự giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được nên thuộc trường hợp không phải chứng minh; Quan hệ tài sản chung vợ chồng đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt vấn đề phải chứng minh.

Các tình tiết mà các bên không thống nhất: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Anh Trần Bá N vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, chị Hoàng Thị T1 đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1 được xác lập theo Giấy chứng nhận kết hôn số 91 ngày 12 tháng 12 năm 2018 của Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng thường phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường xảy ra va chạm, mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2020 đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên anh Trần Bá N xin ly hôn với chị Hoàng Thị T1 và chị Hoàng Thị T1 đồng ý ly hôn. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Trần Bá N với chị Hoàng Thị T1.

[3] Về con chung: Anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1 có một con chung tên là Trần Tuệ A sinh ngày 25/01/2019. Khi ly hôn anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1 đều có nguyện vọng nuôi con. Tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự thể hiện anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1 đều có điều kiện nuôi, con chung đang do chị Hoàng Thị T1 nuôi dưỡng, khỏe mạnh, phát triển bình thường, con dưới 36 tháng tuổi. Vì vậy áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung tên Trần Tuệ A cho chị Hoàng Thị T1 trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1 tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1 không có yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, anh Trần Bá N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên là Trần Tuệ A sinh ngày 25/01/2019 cho chị Hoàng Thị T1 trực tiếp nuôi dưỡng. Việc trực tiếp nuôi con chung được thực hiện cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1 tự thỏa thuận giao nhận cho nhau.

3. Về tài sản chung: Anh Trần Bá N và chị Hoàng Thị T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Anh Trần Bá N phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng anh Trần Bá N đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng tại Biên lai số 0000943 ngày 29 tháng 5 năm 2020; Anh Trần Bá N đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Trần Bá N, Chị Hoàng Thị T1 không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 190/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:190/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;