Bản án 189/2018/HNGĐ-ST ngày 26/12/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 189/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/12/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 758/2018/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 10 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 225/2018/QĐXX-ST ngày 03 tháng 12 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 166/2018/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1985; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 3, xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn 11, xã N, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Phú Q, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn 3, xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 15/8/2018, và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị T (nguyên đơn) khai:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Phú Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn số 05 ngày 22 tháng 3 năm 2007 tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động, chăm sóc con chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn, chị T đã bỏ ra thuê nhà ở tại thôn 11, xã Ngũ Lão, huyện T, thành phố Hải Phòng, vợ chồng chị T hiện đã sống ly thân nhau. Nay chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Phú Q.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị T khai: Chị và anh Nguyễn Phú Q có 02 con chung là Nguyễn Thị Uyển N, sinh ngày 05 tháng 5 năm 2007 và Nguyễn Phú H, sinh ngày 27 tháng 9 năm 2008. Hiện anh Q đang trực tiếp nuôi cả hai con con. Trường hợp ly hôn, chị T làm công nhân phải thuê nhà ở trọ chưa có điều kiện để nuôi con nên chị đề nghị Tòa án giao cho anh Q được tiếp tục nuôi dưỡng cả 02 con chung.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T và anh Q tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T khai: Chị và anh Nguyễn Phú Q không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Phú Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật song đến ngày mở phiên tòa, anh Q vẫn không có mặt để trình bày ý kiến về việc chị T xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Phú Q đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Phú Q được ly hôn. Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Phú Q có 02 con chung là Nguyễn Thị Uyển N, sinh ngày 05 tháng 5 năm 2007 và Nguyễn Phú H, sinh ngày 27 tháng 9 năm 2008. Hiện anh Q đang trực tiếp nuôi hai con và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Cả hai con chung đều có nguyện vọng được ở với bố. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh hiện trạng nuôi con, khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên và căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử giao cho anh Nguyễn Phú Q trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Nguyễn Thị Uyển N và Nguyễn Phú H cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung, nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Phú Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1; khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Phú Q.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Phú Q được xác lập năm 2007 là hợp pháp. Tài liệu điều tra thể hiện: Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, lao động và chăm sóc con chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn, chị Thủy đã bỏ ra ngoài ở, vợ chồng hiện đã sống ly thân nhau. Chị T xin ly hôn anh Q, Tòa án đã triệu tập anh Q nhiều lần để trình bày ý kiến về việc chị T xin ly hôn nhưng anh Q vẫn vắng mặt không có lý. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh Q đã lâm vào tình trạng trầm trọng.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Phú Q có 02 con chung là Nguyễn Thị Uyển N, sinh ngày 05 tháng 5 năm 2007 và Nguyễn Phú H, sinh ngày 27 tháng 9 năm 2008. Hiện anh Q đang trực tiếp nuôi cả hai concon. Khi ly hôn, chị T yêu cầu Tòa án giao cho anh Q được tiếp tục nuôi dưỡng cả hai con chung. Tuy nhiên việc giao con chung cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, từ khi sống ly thân đến nay, anh Q là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Anh Q có việc làm và thu nhập ổn định để thực hiện việc chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Cháu Nguyễn Thị Uyển N và cháu Nguyễn Phú H đều có nguyện vọng được ở với bố. Vì vậy, giao cho anh Nguyễn Phú Q được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Thị Ủy Nhi và Nguyễn Phú H cho đến khitrầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị T và anh Q được ly hôn. mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Phú Q được quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Phú Q.

2. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Phú Q trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Nguyễn Thị Uyển N, sinh ngày 05 tháng 5 năm 2007 và Nguyễn Phú H, sinh ngày 27 tháng 9 năm 2008 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí Tòa án số 0000035 ngày 24 tháng 10 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng, chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Phú Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày chị T, anh Q nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 189/2018/HNGĐ-ST ngày 26/12/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:189/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;