Bản án 188/2024/DS-PT về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 188/2024/DS-PT NGÀY 24/04/2024 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Ngày 24/4/2024 tại Toà án nhân dân tỉnh C xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 66/2024/TLPT-DS ngày 11/3/2024 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 249/2023/DS-ST ngày 10/12/2023 của Toà án nhân dân huyện P bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 118/2024/QĐPT-DS ngày 27/3/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Võ Văn M , sinh năm 1969; Địa chỉ cư trú: Ấp T, xã N, huyện P, tỉnh C (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh Đ, sinh năm 1966; Địa chỉ cư trú: Số E, đường N, khóm E, phường A, thành phố C, tỉnh C (có mặt).

- Bị đơn: Ông Lâm Văn T , sinh năm 1955; Địa chỉ cư trú: Ấp L, xã P, huyện P, tỉnh C (có mặt).

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Vương Tài H, sinh năm 1958; Địa chỉ cư trú: Số A, đường N, khóm D, Phường E, thành phố C, tỉnh C, là người đại diện theo uỷ quyền của ông T văn bản uỷ quyền ngày 30/3/2023 (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Lê Thị T1 (T2), sinh năm 1964.

+ Ông Ng uy ễn Tấ n D , sinh năm 1957.

+ Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1957 (vợ ông D); Cùng địa chỉ cư trú: Ấp T, xã P, huyện P, tỉnh C.

+ Ngân hàng N - Chi nhánh huyện P, tỉnh C. Địa chỉ: Khóm H, thị trấn C, huyện P, tỉnh C.

Người đại diện hợp pháp của Ngân hàng: Ông Trần Thanh T3 – Giám đốc Ngân hàng N - Chi nhánh huyện P, tỉnh C.

- Người kháng cáo: Ông Lâm Văn T là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 - Ông Võ Văn M trình bày: Ông có phần đất được cấp quyền sử dụng đất ngày 17/4/2001 với diện tích 16.390m2, đến tháng 01/2002 ông Lâm Văn T ngang nhiên vô chiếm giữ và canh tác đến tháng 01/2023 mới chấp nhận giao trả lại toàn bộ hiện trạng đất cho ông. Việc tranh chấp đã được Tòa án hai cấp xét xử tại Bản án sơ thẩm số 52/DSST, ngày 18/3/2004 và Bản án phúc thẩm số 196/DSPT, ngày 06/8/2004 đều buộc ông T giao trả lại diện tích đất 16.390m2 cho ông và đã được Chi cục thi hành án dân sự thi hành xong bản án, sau đó ông T không chấp hành án mà tiếp tục chiếm đất canh tác đến tháng 01/2023. Tính từ tháng 01/2002 đến tháng 01/2023 là 23 năm liên tục phía ông bị xâm phạm quyền lợi không được canh tác thụ hưởng trên đất. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp ông yêu cầu Tòa án nhân dân huyện P buộc ông Lâm Văn T phải bồi thường cho ông theo phương thức cho thuê đất canh tác, giá thuê 1.000m2 đất là 1.000.000 đồng, với diện tích 16.390m2 x 1.000.000 đồng = 16.390.000 đồng x 23 năm = 376.970.000 đồng. Tại phiên tòa, ông thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu bồi thường tổng số tiền là 233.000.000 đồng.

- Ông Lâm Văn T trình bày: Ông không đồng ý với Bản án số 196/DSPT, ngày 06/8/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh C. Về nguồn gốc đất là do ông khai phá năm 1979, đến năm 1983 cho ông Lâm Văn S và bà Lê Thị T4 mượn 15 công tầm 3 mét để sản xuất, được thời gian thì ông S chết nên tiếp tục cho bà T4 mượn đến năm 1991 có yêu cầu bà T4 trả đất và thương lượng trả thành quả lao động 10 công, còn 05 công ông cho bà T4. Thời gian kéo dài đến năm 1998, bà T4 không thực hiện nên có nhờ Ban hòa giải, thỏa thuận buộc bà T4 trả thành quả lao động 10.000.000 đồng, tháng 11/1998 trả 5.000.000 đồng, đến tháng 11/1999 trả 5.000.000 đồng trả dứt điểm, ngược lại nếu bà T4 không trả thì phải trả 10 công đất lại cho ông, biên bản lập ngày 20/4/1998, đến 2000 bà T4 không thực hiện đúng như biên bản.

Ngày 23/8/2000, bà T4 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Tấn D giá 01 công là 04 chỉ vàng, có đưa giấy sang nhượng cho Ban nhân dân ấp ký xác nhận và yêu cầu bà T4 trả cho ông 10.000.000 đồng nhưng bà T4 không đồng ý. Ngày 21/8/2000, bà T4 chuyển nhượng cho Võ Văn M phần đất trên giá 60 chỉ vàng, được ấp ký xác nhận ngày 24/8/2000, UBND xã P xác nhận ngày 13/3/2001, công chứng huyện C ký ngày 15/3/2001 (bà T4 không thừa nhận chữ ký, cho rằng ông D giả mạo chữ ký, bà không trực tiếp mua bán với ông Võ Văn M).

Ngày 20/4/2001, UBND xã P hòa giải bà T4 không đồng ý trả thành quả lao động theo Biên bản ngày 20/4/1998 mà trả thẳng 10 công đất, còn 05 công ông cho bà T4, bà T4 bán lại cho ông 5 chỉ vàng và xin thêm 3.500.000 đồng, việc trả tiền vàng có ban ngành cuộc họp chứng kiến và ông nhận lại toàn bộ diện tích đất. Hơn 21 năm qua, ông vẫn tiếp tục quản lý sử dụng nhưng yêu cầu vẫn tiếp tục kéo dài cho đến nay.

Căn cứ biên bản 14/9/2022, ông không cho ông M tự ý vào cất nhà lúc này ông mới biết ông M đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh C cấp quyền sử dụng đất mới số DB 150170 ngày 24/6/2021. Ông yêu cầu Thanh tra Sở T xem xét lại trình tự cấp quyền sử dụng đất cho ông M, yêu cầu xử lý hành vi của ông D vì lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tiền của ông M, giả mạo chữ ký của bà T4. Ông không đồng ý với yêu cầu của ông M vì là đất của ông, không sang bán cho ông M, cũng không thuê đất và làm thiệt hại gì tài sản của ông M.

- Tại công văn số 257/NHNo-PT ngày 10/12/2023 Ngân hàng N - Chi nhánh huyện P nêu: Ông Võ Văn M còn dư nợ 400.000.000 đồng, khoản vay có thế chấp bằng quyền sử dụng đất DB 180170 diện tích 16.390m2, không đặt ra yêu cầu gì và xin vắng mặt.

Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 249/2023/DS-ST ngày 18/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện P quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn M.

Buộc ông Lâm Văn T phải bồi thường thiệt hại cho ông Võ Văn M số tiền là 233.000.000 đồng (hai trăm ba mươi ba triệu đồng).

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, lãi suất chậm thi hành và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 22/12/2023 ông T kháng cáo yêu cầu huỷ án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho cơ quan Công an xử lý.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và không cung cấp thêm chứng cứ gì mới.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C phát biểu: Về tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, đương sự tuân thủ các quy định về pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông T, giữ nguyên bản án sơ thẩm nêu trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hình thức, về nội dung đơn kháng cáo và thời hạn kháng cáo được ông T thực hiện đúng quy định tại các Điều 272, 273 Bộ luật TTDS, HĐXX sẽ xem xét kháng cáo của ông theo quy định. Tranh chấp giữa các đương sự được xác định là tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 26, 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với ông Vương Tài H người đại diện hợp pháp của ông T, đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do, tại toà ông T đồng ý Toà án xét xử vắng mặt người đại diện, nên Toà án xét xử vắng mặt ông H theo quy định.

Tại phiên toà phúc thẩm, ông T đặt ra vấn đề ông không chuyển nhượng đất cho ông M Toà án hai cấp tỉnh C năm 2004 xét xử buộc ông trả đất cho ông M là không đúng, yêu cầu huỷ hai bản án này, HĐXX đã giải thích cho ông T rõ, HĐXX phúc thẩm lần này không có thẩm quyền huỷ hai bản án nêu trên, để ông biết và đi vào trọng tâm kháng cáo bản án sơ thẩm số 249/2023/DS-ST ngày 18/12/2023 của Toà án nhân dân huyện P, nhưng ông vẫn giữ quan điểm như kháng cáo của mình.

[2] Xét kháng cáo của ông T:

- Đối với yêu cầu huỷ án sơ thẩm: Theo quy định tại Điều 310 của Bộ luật TTDS cấp phúc thẩm huỷ án sơ thẩm trong các trường hợp:

- Việc thu thập chứng cứ và chứng minh không theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này hoặc chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được;

- Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng quy định của Bộ luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đối chiếu quy định này với quá trình thực hiện tố tụng của cấp sơ thẩm, thấy cấp sơ thẩm không vi phạm các quy định nêu trên nên yêu cầu huỷ án sơ thẩm của ông T không được chấp nhận.

- Đối với yêu cầu chuyển hồ sơ cho cơ quan Công an: Việc yêu cầu cơ quan Công an là quyền của người dân khi xét thấy quyền lợi của mình bị xâm hại ở mức độ thiệt hại thuộc Luật hình sự điều chỉnh, do đó nếu ông T xét thấy quyền lợi của ông bị xâm hại thì ông có quyền yêu cầu cơ quan Công an bảo vệ quyền lợi của ông, không ai tự nhiên thay thế quyền này của ông được. Trong vụ án này ông M là người khởi kiện ông cho rằng ông xâm hại quyền lợi của ông M ở mức độ thiệt hại thuộc Luật dân sự điều chỉnh, do Toà án đã giải quyết vụ án, nên yêu cầu chuyển hồ sơ cho cơ quan Công an giải quyết là không có căn cứ.

Quan điểm của đại diện VKS tham gia phiên tòa về nội dung vụ án phù hợp với nhận định của HĐXX.

[3] Về án phí: Ông T là người cao tuổi, sau khi xét xử sơ thẩm ông có đơn xin miễn án phí, nên HĐXX xét miễn án phí cho ông cả sơ thẩm lẫn phúc thẩm theo quy định tại Điều 148 Bộ luật TTDS. Đơn xin miễn án phí của ông T phát sinh sau khi xét xử sơ thẩm, nên việc sửa án phí cấp sơ thẩm không có lỗi.

[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị HĐXX không xem xét đến.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 148, khoản 2 Điều 308, Điều 309 BLTTDS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Không chấp nhận kháng cáo của ông LâmVănT. Sửa phần án phí của bản dân sự sơ thẩm số: 294/2023/DS-ST ngày 18/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh C. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn M.

Buộc ông Lâm Văn T phải bồi thường thiệt hại cho ông Võ Văn M số tiền là 233.000.000 đồng (hai trăm ba mươi ba triệu đồng).

Kể từ ngày ông M có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông T chậm thanh toán, thì ông T còn phải chịu thêm khoản lãi quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả cho đến khi thi hành xong.

2. Về án phí: Ông T là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên được miễn cả án phí sơ thẩm lẫn phúc thẩm.

Ông Võ Văn M được hoàn lại số tiền nộp tạm ứng 9.424.000 đồng (chín triệu bốn trăm hai mươi bốn nghìn đồng) tại lai thu tiền số 0018625, ngày 16/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 188/2024/DS-PT về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Số hiệu:188/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;