TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 188/2023/HS-ST NGÀY 28/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 4 năm 2023, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 182/2023/HSST ngày 12 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 180/2023/QĐXXST-HS ngày 17/4/2023, đối với bị cáo:
Trần Xuân T (tên gọi khác: T lé); sinh năm 1984, tại Nghệ A; Nơi cư trú: Tổ 7A, khu phố TC, phường PT, thành phố BH, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ học vấn: 09/12; con ông Trần Xuân H (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1964 (còn sống); Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền sự: không.
Tiền án:
- Ngày 07/6/2005, Trần Xuân T thực hiện hành vi “Cố ý gây thương tích”. Ngày 23/3/2006, bị Toà án nhân dân thành phố B xử phạt 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
- Ngày 13/6/2005, Trần Xuân T thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản”. Ngày 26/9/2005, bị Toà án nhân dân thành phố B xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 13/6/2005, Trần Xuân T thực hiện hành vi “Giết người”. Ngày 24/5/2006, bị Toà án nhân dân tỉnh Đ xử phạt 12 năm tù về tội “Giết người”.
Tổng hợp hình phạt với bản án số 395/2005/HSST ngày 26/9/2005 và bản án số 162/2006/HSST ngày 23/3/2006 của Toà án nhân dân thành phố B, buộc Trần Xuân T phải chấp hành hình phạt chung cho cả 03 bản án là 16 năm 8 tháng tù. Bị cáo T đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/01/2020 (chưa được xoá án tích).
Bị cáo bị giam giữ từ ngày 20-10-2022 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 20/10/2022, một người tên Đ (bạn T -chưa rõ nhân thân lai lịch) nhắn tin và Trần Xuân T (là người sử dụng trái phép chất ma túy) đến tiệm game bắn cá tại địa chỉ số G869, tổ 6, khu phố 7 phường Long Bình, thành phố B, tỉnh Đ giữ dùm gói ma tuý Đ cất giấu dưới chân bàn trong tiệm game, khi xong việc Đ đến lấy và sẽ cho T một ít ma tuý để sử dụng, T đồng ý. T đón xe Grap đi đến tiệm game bắn cá nêu trên để trông giữ gói ma tuý cho Đ.
Đến khoảng 17 giờ 00 cùng ngày, Hoàng Tường A (sinh năm 1993, cư trú tại: Tổ 3B, khu phố HP, phường PT, thành phố BH, tỉnh Đ) điều khiển xe mô tô biển số 60K3-xxxxx đến tiệm game bắn cá gặp và hỏi mua ma tuý của T, T đồng ý. A đưa cho T 179.000đ (Một trăm bảy mươi chín nghìn đồng), T lấy gói ma tuý dưới chân bàn lên, lấy một phần ma tuý cho vào ống nhựa dùng bật lửa hàn kín hai đầu rồi để trên bàn. Phần còn lại, T cho vào gói ni lông cất giấu dưới chân bàn để đưa lại cho Đ. Khi T đang để ống nhựa chứa ma tuý trên bàn chưa kịp bán cho A thì bị Công an phường Long Bình kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Xuân T khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
(Theo Biên bản phạm tội quả tang bút lục số: 01-02; Lời khai, biên bản hỏi cung bị can bút lục số: 77-91; Lời khai người làm chứng bút lục số: 100-111; Biên bản đối chất bút lục số: 92).
* Vật chứng thu giữ:
- 01 (một) túi ni lông bên trong chứa chất màu trắng thu giữ dưới chân bàn cạnh nơi Trần Xuân T đứng (kí hiệu M1) - (Bút lục số: 06) - 01 (một) đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín hai đầu bên trong chứa chất màu trắng thu giữ trên bàn (kí hiệu M2). - (Bút lục số: 07) - 179.000đ (Một trăm bảy mươi chín nghìn đồng) là tiền Hoàng Tường A đưa cho Trần Xuân T với mục đích mua ma tuý.
- 01 điện thoại di động hiệu HUAWEL Y7 pro màu đỏ, số thuê bao: 0375585xxx và 0826043xxx, số Imel 1: 867615045327530, số Imel 2: 867615045367544 của Trần Xuân T dùng liên lạc với Đ liên quan đến hành vi phạm tội.
- 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Winner, biển số 60K3-xxxxx thu giữ của Hoàng Tường A. Qua xác minh, xe mô tô biển số 60K3-xxxxx do anh Hoàng Tiến Đ (sinh năm 1990, thường trú tại khu phố HP, phường PT, thành phố BH, tỉnh Đ là anh trai của Hoàng Tường A) là chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả xe lại cho anh Đ quản lý. (Bút lục số: 116, 117, 125-127).
* Tại Kết luận giám định số 2213/KL-KTHS ngày 26/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ, kết luận như sau:
“Mẫu tinh thể màu trắng (kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,8902 gam, loại Methamphetamine.
Mẫu chất màu trắng (kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1511 gam, loại Methamphetamine”. (Bút lục số: 10) Tại Cáo trạng số: 192/VKSBH-HS ngày 06 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị can Trần Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Mua bán trài phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và tội “Mua bán trài phép chất ma tuý” như cáo trạng đã nêu. Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; về tình tiết tăng nặng, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt về 02 tội đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: số tiền 179.000đ (một trăm bảy mươi chín nghìn đồng) liên quan đến việc phạm tội và 01 điện thoại di động hiệu HUAWEL Y7 pro màu đỏ, số thuê bao: 0375585xxx và 0826043xxx, số Imel 1: 867615045327530, số Imel 2: 867615045367544 của Trần Xuân T do liên quan đến hành vi phạm tội.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Đối với hành vi của Hoàng Tường A: Việc A thoả thuận mua ma tuý của Trần Xuân T nhưng chưa nhận ma tuý nên hành vi của A chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Qua kiểm tra xác định A đã sử dụng trái phép chất ma tuý nên Công an thành phố B đã ra quyết định xử phạt hành chính.
Đối với đối tượng tên Đ (chưa rõ nhân thân lai lịch) có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử nhẹ cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các hành vi tố tụng, Quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Vì vậy, hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.
[2] Lời khai tại phiên tòa của bị cáo Trần Xuân T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng, kết luật giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó, đã có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 17 giờ ngày 20/10/2022, tại tiệm game bắn cá địa chỉ số G869, tổ 6, khu phố 7 phường Long Bình, thành phố B, tỉnh Đ, Trần Xuân T có hành vi tàng trữ trái phép 0,8902 gam ma tuý loại Methamphetamine và có hành vi chia ma tuý từ bịch lớn sang ống nhựa hàn kín hai đầu với mục đích bán trái phép 0,1511 gam ma tuý loại Methamphetamine nhưng chưa kịp bán thì bị Công an phường Long Bình, thành phố B kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, bị cáo Trần Xuân T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3] Xét nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thấy: Bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vê tình tiết tăng nặng, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Bị cáo bị xét xử cùng lúc 02 (hai) tội nên cần áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt theo quy định.
[4] Về xử lý vật chứng:
Cần tịch thu tiêu huỷ: Số ma tuý còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 (một) gói niêm phong số: 2213/KL-KTHS ngày 26/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ.
Cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước: số tiền 179.000đ (một trăm bảy mươi chín nghìn đồng) là số tiền mua bán ma tuý và 01 điện thoại di động hiệu HUAWEL Y7 pro màu đỏ, số thuê bao: 0375585xxx và 0826043xxx, số Imel 1: 867615045327530, số Imel 2: 867615045367544 của Trần Xuân T là phương tiện liên lạc để thực hiện hành vi phạm tội.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[6] Về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 55 và Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Tuyên bố bị cáo Trần Xuân T (tên gọi khác: T lé) phạm các tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
- Xử phạt bị cáo Trần Xuân T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
- Xử phạt bị cáo Trần Xuân T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo quy định tại khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Buộc bị cáo Trần Xuân T phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là: 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/10/2022.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017):
- Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau khi giám định;
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: số tiền 179.000đ (một trăm bảy mươi chín nghìn đồng) theo Biên lai thu số 0002563 ngày 20/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.
- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu HUAWEL Y7 pro màu đỏ, số thuê bao: 0375585xxx và 0826043xxx, số Imel 1: 867615045327530, số Imel 2: 867615045367544.
(Vật chứng trên đã được giao nhận theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20/4/2023 giữa Chi cục thi hành án dân sự thành phố B và Công an thành phố B).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 188/2023/HS-ST về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 188/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về