Bản án 188/2020/HSST ngày 28/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 188/2020/HSST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 28/9/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 177/2020/HSST ngày 07/8/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Đức L - Giới tính: Nam; Sinh năm: 1974 - Nơi sinh: Hà Nội ; Nơi cư trú: phường B, quận H, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không - Trình độ học vấn: 07/12 ; Họ tên cha: Trần Tự C - đã chết ; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị H1 ; Vợ: Nguyễn Thúy H2.

TATS: 03 tiền án: Ngày 04/12/1995, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 42 tháng tù về tội Cướp tài sản, phạm tội ngày 15/3/1994 (AS: 947/HSST), xác minh thi hành án chưa đóng án phí hình sự sơ thẩm - án tích chưa được xóa.

Ngày 11/12/1995, Tòa án nhân dân quận H xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 6.500.000 đồng), ngày phạm tội 16/9/1995 (AS: 434/HSST), xác minh thi hành án đã đóng án phí hình sự sơ thẩm, chưa đóng án phí dân sự sơ thẩm - án tích chưa được xóa.

 Ngày 15/12/2003, Tòa án nhân dân quận H xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ra trại ngày 23/12/2005 (AS: 389/HSST), xác minh thi hành án đã đóng án phí hình sự sơ thẩm - án tích đã được xóa.

Án số 947/HSST ngày 04/12/1995 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội chưa có hiệu lực pháp luật thì đến ngày 11/12/1995, Tòa án nhân dân quận H xử án số 434/HSST, cả 02 bản án trên bị cáo chưa hoàn thành nghĩa vụ đóng án phí nhưng do án sau xử khi án trước chưa có hiệu lực pháp luật nên đến nay chỉ xác định bị cáo tái phạm. Tạm giữ: 01/6/2020 - Tạm giam: 07/6/2020 - Số giam: 2911V1/BX. Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an Thành phố Hà Nội.

Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 15 phút ngày 31/5/2020, tổ công tác Công an phường B làm nhiệm vụ trên địa bàn, khi đi đến phường P, quận H, Hà Nội phát hiện Trần Đức L đang ngồi trên xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh BKS: 29P4-6155 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, L tự nguyện giao nộp ở trong lòng bàn tay trái 01 túi nilông kích thước khoảng 2x2cm bên trong chứa tinh thể màu trắng và trong túi quần phía trước bên trái 01 túi nilông kích thước khoảng 2x2cm bên trong chứa tinh thể màu trắng - L khai là ma túy “đá” mang đi bán kiếm lời. Tổ công tác đã đưa L cùng tang vật về trụ sở Công an phường P để làm việc.

Ngoài ra còn thu giữ của Trần Đức L: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh BKS: 29P4 – 6155; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA – E72 màu vàng đồng kèm sim đã qua sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 4313/KLGĐ-PC09 ngày 06/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông kích thước 2x2cm khối lượng 0,306 gam là ma túy loại Methamphetamine; Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông kích thước 2x2cm khối lượng 0,360 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Trần Đức L khai: Khoảng 14 giờ 50 phút ngày 31/5/2020, L nhận được tin nhắn của một nam thanh niên tên T (không rõ nhân thân) sử dụng số điện thoại 0971573081 hỏi mua 500.000 đồng ma túy “đá” và hẹn giao ma túy tại ngã tư N – P1, phường P, quận H, Hà Nội. L đồng ý và điều khiển xe máy đến khu vực bến xe G – H1 mua của một người đàn ông không quen biết 02 túi nilông màu trắng chứa ma túy “đá” với giá 300.000 đồng/01 túi (tổng 02 túi là 600.000 đồng). Mua được ma túy, L cất giấu vào trong túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi đi đến nơi hẹn bán ma túy. Khi L đang chờ T thì bị tổ công tác kiểm tra, bắt quả tang như đã nêu trên. Nếu bán ma túy trót lọt, L sẽ hưởng lời 200.000 đồng/01 túi ma túy. Chiếc xe máy L mượn của bạn quen ngoài xã hội là H2 (sinh năm: 1973, chỗ ở: quận M, Hà Nội) để đi lại, không cho anh H2 biết việc L mua bán trái phép chất ma túy. Chiếc điện thoại thu giữ là tài sản của L sử dụng vào mục đích liên lạc với gia đình bạn bè và liên lạc mua bán trái phép chất ma túy.

Đối với T - người hỏi mua ma túy của L, L khai chỉ biết số điện thoại không rõ nhân thân, cơ quan điều tra đã rút list điện thoại xác định chủ đăng ký là chị Lường Thị T1 (sinh năm: 1998, địa chỉ: Z, S, I), chị T1 không có mặt tại địa phương, bỏ đi đâu không rõ địa chỉ. Do đó, cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh để xử lý.

Về người đàn ông bán ma túy cho L, do L khai không biết họ tên địa chỉ, cơ quan điều tra đã dẫn giải L đi chỉ nơi đã mua ma túy nhưng không xác định được người đã bán ma túy nên cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra xác minh để xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh BKS: 29P4 – 6155, quá trình điều tra xác minh có chủ đăng ký xe là Hà Thị Tuyết N1 (địa chỉ: phường Q, quận B, Hà Nội). Chị N1 hiện chuyển đi đâu không rõ địa chỉ, cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chỉ sở hữu nhưng chưa có ai đến nhận nên đã chuyển theo hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số: 167/CT/VKS-HS ngày 03 tháng 9 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận H– Thành phố Hà Nội đã truy tố Trần Đức L về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trong quá trình điều tra và nội dung bản cáo trạng đã nêu. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận H giữ quan điểm truy tố với Trần Đức L như tội danh và điều luật đã nêu. Sau khi phân tích tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đánh giá mức độ phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo L mức án từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù giam. Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA – E72 màu vàng đồng kèm sim đã qua sử dụng. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh BKS: 29P4 – 6155 thu giữ của bị cáo tiếp tục thông báo tìm chủ sở hữu trong 01 năm, nếu không tìm được sẽ sung công quỹ Nhà nước.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận H Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên òa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về định tội và hình phạt: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, bằng vật chứng thu giữ của bị cáo, qua giám định là ma túy loại Methamphetamine cùng các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 15 phút ngày 31/5/2020 tại phường P, H, Hà Nội, Trần Đức L đã có hành vi bán trái phép 0,666 gam Methamphetamine thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền kiểm soát và quản lý độc quyền về chất ma túy của Nhà nước. Ma túy là chất gây nghiện làm huỷ hoại sức khoẻ con người, làm xói mòn đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán ma tuý và ma tuý cũng là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự do đó phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Xét nhân thân: Bị cáo có 03 tiền án : Ngày 04/12/1995, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 42 tháng tù về tội Cướp tài sản, phạm tội ngày 15/3/1994 (AS: 947/HSST), xác minh thi hành án chưa đóng án phí hình sự sơ thẩm - án tích chưa được xóa. Ngày 11/12/1995, Tòa án nhân dân quận H xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 6.500.000 đồng), ngày phạm tội 16/9/1995 (AS: 434/HSST), xác minh thi hành án đã đóng án phí hình sự sơ thẩm, chưa đóng án phí dân sự sơ thẩm - án tích chưa được xóa. Ngày 15/12/2003, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ra trại ngày 23/12/2005 (AS: 389/HSST), xác minh thi hành án đã đóng án phí hình sự sơ thẩm - án tích đã được xóa. Án số 947/HSST ngày 04/12/1995 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội chưa có hiệu lực pháp luật thì đến ngày 11/12/1995, Tòa án nhân dân quận H xử án số 434/HSST, cả 02 án trên bị cáo chưa hoàn thành nghĩa vụ đóng án phí nhưng do án sau xử khi án trước chưa có hiệu lực pháp luật nên đến nay chỉ xác định bị cáo tái phạm. Bị cáo là người có nhân thân xấu, không chịu tu dưỡng trở thành người có ích cho xã hội mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần phải được xử lý nghiêm các ly bị cáo ra khỏi môi trường xã hội, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo, cũng như việc phòng chống tội phạm nói chung.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, xét thấy nên giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đối với loại tội này, ngoài hình phạt chính, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3]. Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong dán kín các mép, trên các mép dán đều có chữ ký của Trần Đức L, người chứng kiến, cán bộ niêm phong và dấu đỏ in hình quốc huy bên trong có: 01 túi nilông màu trắng kích thước 2x2cm chứa 0,306 gam Methamphetamine (PC09 trích mẫu giám định 0,054 gam, còn lại 0,252 gam Methamphetamine) và 01 túi nilông màu trắng kích thước 2x2cm chứa 0,360 gam Methamphetamine);

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia - E7 màu vàng đồng kèm sim (đã qua sử dụng), không rõ chất lượng do bị cáo dùng vào việc phạm tội.

+ Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh BKS: 29P4 – 6155, quá trình điều tra xác minh có chủ đăng ký xe là Hà Thị Tuyết N1 (địa chỉ: phường Q quận B , Hà Nội). Chị Nhung hiện chuyển đi đâu không rõ địa chỉ. Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận có sử dụng chiếc xe máy để đi mua bán ma túy. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chỉ sở hữu nhưng chưa có ai đến nhận do đó tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu nếu không ai đến nhận thì sung công quỹ Nhà nước.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về đối tượng hỏi mua ma túy của L tên T, L khai chỉ biết số điện thoại không rõ nhân thân, cơ quan điều tra đã rút list điện thoại xác định chủ đăng ký là chị Lường Thị T1 (sinh năm: 1998, địa chỉ: Z, S, I), chị T1 không có mặt tại địa phương, bỏ đi đâu không rõ địa chỉ, cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh để xử lý nên Hội đồng xét xử không xét.

Về người đối tượng bán ma túy cho L, do L khai không biết họ tên địa chỉ, cơ quan điều tra đã dẫn giải L đi chỉ nơi đã mua ma túy nhưng không xác định được người đã bán ma túy, cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra xác minh để xử lý Hội đồng xét xử không xét.

Từ những nhận định trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố : Bị cáo Trần Đức L phạm tội: “ Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 - Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Trần Đức L 36 (ba mươi sáu) tháng tù giam về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” . Thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2020.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Miễn phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của giám định viên và Trần Đức L, bên trong có: 01 túi nilông màu trắng kích thước 2x2cm chứa Methamphetamine có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,306 gam (PC09 trích mẫu giám định 0,054 gam, còn lại 0,252 gam Methamphetamine) và 01 túi nilông màu trắng kích thước 2x2cm chứa Methamphetamine có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,360 gam Methamphetamine) và 01 sim điện thoại đã cũ.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia - E7 màu vàng đồng đã cũ, không rõ chất lượng.

+ Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh BKS: 29P4 – 6155, SK,SM: 56479, xe đã cũ nát, phần nhựa bị vỡ, đã qua sử dụng, không kiểm tra được bên trong, không rõ chất lượng tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu. Hết thời hạn đăng báo mà không tìm được chủ sở hữu thì sung công quỹ Nhà nước.

Các tang vật trên hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 16/9/2020 giữa Công an Quận Hoàn Kiếm và Chi cục Thi hành án dân sự Quận Hoàn Kiếm.

4. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 188/2020/HSST ngày 28/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:188/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;