Bản án 186/2021/HSST ngày 24/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 186/2021/HSST NGÀY 24/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 24 tháng 5 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 176/2020/HSST ngày 19/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 205/2021/QĐXXST-HS ngày 07/5/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên:Trần Đức D,giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày 30/10/1977 tại Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT: tổ 02 phường C, thành phố Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; học vấn: 9/12; nghề nghiệp: không; con ông: Trần Ngọc L (đã chết) và bà Phạm Thị Ng; có vợ là Trịnh Thị Ng; có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/3/2021 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: bà Phạm Thị Ng, sinh năm 1945 Địa chỉ: Tổ 02 phường C, thành phố Thái Nguyên; có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 30 phút ngày 23/3/2021 Công an phường T, thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực nghĩa trang, thuộc tổ 11 phường T, thành phố Thái Nguyên, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ tại túi quần sau bên phải của Trần Đức D 02 gói giấy bạc màu trắng, trong đó 01 gói giấy bạc màu trắng chứa chất bột màu trắng, D khai là Heroine; 01 gói giấy bạc màu trắng chứa các mảnh viên nén màu hồng, D khai là ma túy tổng hợp. Tạm giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu MOTOSTAR, BKS 18S9 – 2688 của Trần Đức D.

Cân toàn bộ số chất bột màu trắng có khối lượng 0,257 gam, lấy 0,048 gam, ký hiệu D3 gửi giám đinh; cân toàn bộ các mảnh viên nén màu hồng có khối lượng 0,055 gam, ký hiệu D gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 638/KL – KTHSngày 31/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu các mảnh viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu D gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,055 gam; Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu D3 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,257 gam.

Tại Cơ quan điều tra Trần Đức D khai nhận:Khoảng 10 giơ ngày 23/3/2021 D điều khiển xe mô tô BKS 18S9 - 2688 từ nhà đên khu vưc uống Methadon , thuộc phường Tr, thành phố Thái Nguyên, mục đích mua ma túy để sử dụng. D gặp 02 người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ đèo nhau trên 01 chiếc xe mô tô màu đỏ không rõ biển kiểm soát hỏi mua ma túy của 02 người đàn ông trên. 02 người đàn ông dẫn D đến khu vực nghĩa trang, thuộc phường Tích Lương, thành phố Thái Nguyên và đưa cho D 01 gói Methamphetamine và 01 gói Heroine, với giá 270.000 đồng. D câm số ma túy vừa mua được cho vào túi quần phía sau bên phải đang mặc, trên đường đi về thì bị phát hiện bă t quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án gồm: 03 bì niêm phong ký hiệu D, D3, D4; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu MOTOSTAR, BKS 18S9 – 2688, quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là của bà Phạm Thị Ng, sinh năm 1945, HKTT: Tổ 02 phường C, thành phố Thái Nguyên, là mẹ đẻ của D.

Tại bản cáo trạng số 191/CT-VKSNDTPTN ngày 16/4/2021, VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố Trần Đức D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Đức Dkhai nhận rõ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên bản cáo trạng số 191/CT-VKSNDTPTN ngày 16/4/2021, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Đức Dphạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Trần Đức Dtừ 18 đến24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; trả lại bà Phạm Thị Ng chiếc xe mô tô; tịch thu tiêu hủy vật chứng.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

[2] Tại phiên tòa bị cáo Trần Đức D khai:Khoảng 10 giơ ngày 23/3/2021 D điều khiển xe mô tô BKS 18S9 - 2688 từ nhà đên khu vưc khu v ực nghĩa trang, thuộc phường T, thành phố Thái Nguyên mua của 02 người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ 01 gói ma túy tổng hợp và 01 gói Heroine, với giá 270.000 đồng. D câm số ma túy vừa mua được cho vào túi quần phía sau bên phải đang mặc, trên đường đi về thì bị phát hiệnbắt quả tang và thu giữ vật chứng như bản Cáo trạng truy tố là đúng.

[3] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng thu được, Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định Trần Đức Dđã có hành vi mua0,055 gam Methamphetamin và 0,257 gam Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo Trần Đức D đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4] Bản cáo trạng số 191/CT-VKSNDTPTN ngày 16/4/2021VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố Trần Đức Dtheo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[5] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo [6] Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai thành khẩn, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và không phải chịu tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự quy định tạiĐiều 52 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo [7] Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung:Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, công việc và thu nhập không ổn định, không có tài sản gì để đảm bảo thi hành, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng: Cần tịch thu, tiêu hủy số ma tuý thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định.Đối với chiếc xe mô tô, bị cáo sử dụng vào việc mua ma túy, quá trình điều tra xác định, thuộc quyền sở hữu của bà Phạm Thị Ng là mẹ đẻ của bị cáo. Bà Ng không biết bị cáo sử dụng chiếc xe vào việc phạm tội, nên trả lại cho bà Ng quản lý, sử dụng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Trần Đức D 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 23/3/2021.

2. Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Quyết định tạm giam bị cáo Trần Đức D 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyển án để đảm bảo thi hành án.

3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

4. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy:

01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: D (bên trong có chứa vỏ bao gói mẫu) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Phòng KTHS – Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Trần Đức Thủy.

01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: D3 (bên trong có chưa 0,036 gam mẫu vật còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu D3)mặt sau có các dấu tròn đỏ của Phòng KTHS – Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Trần Đức Thủy.

01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu D4 (bên trong có chưa 0,209 gam chất bột màu trắng) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thái Nguyên và chữ ký của các thành phần tham gia.

Trả lại bà Phạm Thị Ng 01 chiếc xe mô tô đã qua sử dụng, nhãn hiệu MOTOSTAR, BKS 18S9 – 2688, số máy M3G-236059, số khung D-236059, loại xe 02 bánh từ 50 – 175 cm3, màu sơn xanh, dung tích xi lanh 110, số loại 110.

nh trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng số 308 ngày 12/4/2021giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

5. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326 của UBTVQH 14 về án phí, lệ phí: buộc bị cáo Trần Đức Dphải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 186/2021/HSST ngày 24/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:186/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;