Bản án 186/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 186/2019/HS-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 183/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số: 191/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Đoàn Mạnh C, sinh ngày 25 tháng 3 năm 1992 tại Thái Bình; nơi cư trú: Thôn N, xã M, huyện K, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Trung K (ông K được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng nhì) và bà Phan Thị L; chưa có vợ; chưa có con; tiền án: Bản án số 19/2014/HSST ngày 21/4/2014 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xử phạt Đoàn Mạnh C 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/12/2013 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự, hiện C chưa nộp 12.480.000 đồng để sung quỹ Nhà nước và 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; Bản án số 35/2015/HSST ngày 17/7/2015 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xử phạt Đoàn Mạnh C 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/02/2015 về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự, hiện C chưa nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; Bản án số 40/2015/HSST ngày 31/7/2015 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xử phạt Đoàn Mạnh C 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/02/2015 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự, hiện C chưa nộp 4.000.000đồng để sung quỹ Nhà nước và 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; tiền sự: Không; Nhân thân: Từ tháng 2 năm 2011 đến tháng 9 năm 2012 tham gia nghĩa vụ quân sự đóng quân tại thành phố V, tỉnh Nghệ An; bị bắt tạm giữ từ ngày 22/7/2019 đến ngày 24/7/2019 chuyển tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ, tạm giam Công an thành phố T, tỉnh Thái Bình; (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Đoàn Trung D, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Đường N, phường H, quận B, thành phố Hải Phòng (có mặt).

- Người chứng kiến:

1. Anh Dương Ngọc H, sinh năm 1985; Nơi cư trú: Phường X, thành phố T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

2. Anh Trần Đức L, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 22 tháng 7 năm 2019, Đoàn Mạnh C điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter RV màu đen - bạc đi từ nhà đến khu vực đường Đ thuộc phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, C đã gặp và mua 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng của 01 người nam giới khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ. Mua xong, C cất gói ma túy vào trong cốp xe máy của mình rồi điều khiển xe máy đi tìm chỗ sử dụng. Khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày, khi C đi đến khu vực đường L, thuộc phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Bình yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của ông anh Dương Ngọc H và anh Trần Đức L, C tự giác lấy từ trong cốp xe máy giao nộp cho tổ công tác 01 gói bên ngoài được gói bằng giấy trắng kim loại màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, C khai đó là hêrôin, C mua với mục đích sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng gửi giám định; ngoài ra, còn quản lý của Đoàn Mạnh C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã cũ; 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha JupiterRV màu đen - bạc và số tiền 1.860.000đồng.

Tại Kết luận giám định số 320/KLGĐ-PC09 ngày 22 tháng 7 năm 2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định thu của Đoàn Mạnh C là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1235 gam (không phẩy một nghìn hai trăm ba mươi lăm gam).

Cáo trạng số 190/CT-VKSTP ngày 17 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình để xét xử đối với Đoàn Mạnh C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Đoàn Mạnh C khai gói ma túy được cất dấu trong cốp xe bị cáo đang sử dụng không biết từ đâu mà có và không phải là của bị cáo, do bị cáo được cán bộ điều tra (không nhớ họ tên) nói với bị cáo lượng ma túy thu trong cốp xe của bị cáo ít nếu bị cáo khai nhận số ma túy đó là của bị cáo thì bị cáo chỉ bị xử lý hành chính vì vậy bị cáo tự nguyện khai nhận bị cáo đã cất dấu trong cốp xe máy bị cáo đang sử dụng 01 gói ma túy để sử dụng cho bản thân tại bản tự khai và tất cả các lời khai của bị cáo, bị cáo không bị đánh đập ép phải khai báo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đoàn Mạnh C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Đoàn Mạnh C mức án từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: tịch thu tiêu hủy số ma túy được niêm phong trong phong bì số 320/KLGĐ; trả lại Đoàn Mạnh C số tiền 1.860.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã cũ, lắp sim số 0971899912; trả lại anh Đoàn Trung D chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha JupiterRV màu đen - bạc, biển kiểm soát 16L2 - 9515.

Sau khi tranh luận bị cáo Đoàn Mạnh C khai nhận bị cáo đã cất dấu trong cốp xe máy bị cáo đang sử dụng 01 gói ma túy để sử dụng cho bản thân, bị cáo đồng ý với tội danh Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố.

Bị cáo Đoàn Mạnh C nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa bị cáo khai có đề nghị bằng lời nói với cán bộ điều tra về việc giám định vân tay trên gói ma túy để xác định dấu vân tay của bị cáo nhung cơ quan điều tra không giám định, Hội đồng xét xử thấy quá trình điều tra do bị cáo tự nguyện khai nhận bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân nên cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định về chất và khối lượng ma túy bị cáo đã tàng trữ là đúng pháp luật, việc giám định vân tay không có giá trị chứng minh bị cáo không phạm tội (trong trường hợp bị cáo sử dụng găng tay, ... khi tiếp xúc với gói ma túy đó). Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy lời khai của bị cáo Đoàn Mạnh C tại phiên tòa về lý do bị cáo tự nguyện nhận tội để được xử lý hành chính là không có căn cứ để chấp nhận vì sau khi bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ ma túy của mình cơ quan điều tra không xử lý hành chính mà đã khởi tố, bắt tạm giam bị cáo nhưng trong suốt quá trình điều tra, truy tố tiếp theo bị cáo vẫn tự nguyện khai nhận đã thực hiện hành vi tàng trữ ma túy của mình và không có khiếu nại hoặc thay đổi lời khai, bị cáo thừa nhận bản tự khai và các lời khai bị cáo đều ký tên nhận tội là tự nguyện, sau khi tranh luận bị cáo khai nhận bị cáo đã cất dấu trong cốp xe máy bị cáo đang sử dụng 01 gói ma túy để sử dụng cho bản thân. Hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định, lời khai người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 22 tháng 7 năm 2019, tại khu vực đường L, thuộc phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình, Đoàn Mạnh C tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,1235 gam, mục đích sử dụng cho bản thân. Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: …..; 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: ..; o) Tái phạm nguy hiểm.”. Hành vi của Đoàn Mạnh C là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định quản lý chất gây nghiện của nhà nước, trong đó ma túy là loại chất gây nghiện gây tác hại rất xấu cho sức khỏe của con người, là nguyên nhân phá hoại hạnh phúc của bao gia đình và còn phát sinh các tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự trị an xã hội. Bị cáo là người đã thành niên, có nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả của hành vi do mình thực hiện, nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm khi đã tái phạm, chưa được xóa án tích thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự. Hành vi trên của Đoàn Mạnh C đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Đoàn Mạnh C không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và đến phần tranh luận tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội nhân dân Việt Nam, bố bị cáo được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhì, do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục bị cáo, góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, số ma túy thu giữ trong vụ án còn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; số tiền 1.860.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã cũ quản lý của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, do đó cần trả lại cho bị cáo. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha JupiterRV màu đen - bạc, quá trình điều tra xác định xe do chị Vũ Thị Hồng N, sinh năm 1981, trú tại phường N, quận C, thành phố Hải Phòng mua và đăng ký đứng tên, tháng 5 năm 2019 chị N bán lại chiếc xe trên cho anh Đoàn Trung D, anh D cho Đoàn Mạnh C mượn xe máy để đi lao động, anh D có yêu cầu nhận lại tài sản, do đó cần trả lại chiếc xe máy trên cho anh Đoàn Trung D.

[7] Về nguồn gốc số ma túy, Đoàn Mạnh C khai mua của một người nam giới khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ, tại khu vực đường Đ thuộc phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo Đoàn Mạnh C phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Đoàn Mạnh C, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đoàn Trung D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm 0 khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đoàn Mạnh C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đoàn Mạnh C 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 22 tháng 7 năm 2019).

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của Đoàn Mạnh C còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì số 320/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

3.2. Trả lại bị cáo Đoàn Mạnh C số tiền 1.860.000 đồng (một triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã cũ.

3.3. Trả lại anh Đoàn Trung D, sinh năm 1987, trú tại phường H, quận B, thành phố Hải Phòng chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha JupiterRV màu đen - bạc.

(Các vật chứng trên đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 17 tháng 10 năm 2019 và biên lai thu tiền số 0001508 ngày 17 tháng 10 năm 2019).

4. Về án phí: Bị cáo Đoàn Mạnh C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Đoàn Mạnh C, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đoàn Trung D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 07 tháng 11 năm 2019).

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 186/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:186/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;