TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 185/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 09 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 79/2022/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 244/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 162/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn T, xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương.
2. Bị đơn: Anh Vũ Hữu H1, sinh năm 1987.
Nơi cư trú trước khi xuất cảnh: Thôn T, xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan.
3. Người làm chứng: Ông Vũ Hữu T, sinh năm 1965, địa chỉ: Thôn T, xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương.
Các đương sự và người làm chứng đều vắng mặt. (Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn và bản tự khai cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, chị Phạm Thị H trình bày: Chị và anh Vũ Hữu H1 được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 05 tháng 12 năm 2014 tại UBND xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm trong cuộc sống cũng như công việc, anh H1 không chịu làm ăn, thường xuyên vay nợ khiến kinh tế gia đình khó khăn. Đến cuối năm 2015, anh H1 đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Từ khi đi nước ngoài, anh H1 không hề quan tâm, hỏi han gì đến vợ con và cũng chủ động cắt đứt liên lạc với chị H. Dù nhiều lần được bạn bè và gia đình khuyên nhủ để vợ chồng hàn gắn, tu dưỡng làm ăn nhưng anh H1 không đồng ý nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho chị H ly hôn với anh Vũ Hữu H1 để cả hai sớm ổn định cuộc sống.
Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị H và anh H1 có 01 con chung là cháu Vũ Tuệ L, sinh ngày 21/02/2016. Hiện nay, cháu L đang ở cùng chị H và ông bà ngoại tại Thôn T, xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương. Bản thân chị H hiện nay cũng có nơi cư trú và việc làm ổn định có đủ khả năng để nuôi dưỡng chăm sóc con chung. Đề nghị Tòa án giao cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng cháu L và không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp với gia đình: Chị H không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của ông Vũ Hữu T là bố đẻ của anh Vũ Hữu H1. Tại các biên bản lấy lời khai, ông T trình bày: Anh H1 và chị H được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn năm 2014 tại UBND Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Hiện nay, anh H1 đang lao động tại Đài Loan. Anh H1 đã được ông thông báo các nội dung văn bản tố tụng của Tòa án. Anh H1 xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn đồng thời, do anh H1 đang ở nước ngoài chưa thể về nước nên anh H1 không đồng ý ly hôn chị H và đề nghị Tòa án đợi anh H1 về rồi mới giải quyết. Do anh H1 không cung cấp địa chỉ cụ thể ở Đài Loan nên ông không thể cung cấp cho Tòa án.
Theo thông tin do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cung cấp tại Công văn số 10406/QLXNC-P5 ngày 19/5/2022 thể hiện: Anh Vũ Hữu H1, sinh ngày 25/9/1987, có thông tin xuất cảnh ngày 13/12/2015 bằng hộ chiếu số B5406403 qua cửa khẩu Nội Bài, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.
Tại phiên tòa, chị H, anh H1, ông T đều vắng mặt (chị H có đơn xin xét xử vắng mặt).
Quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Hải Dương: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị H và anh H1 đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận xử cho chị Phạm Thị H ly hôn anh Vũ Hữu H1; về con chung, giao cháu Vũ Tuệ L, sinh ngày 21/02/2016 cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh H1 không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Phạm Thị H có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Vũ Hữu H1, là người Việt Nam có hộ khẩu thường trú tại Hải Dương, hiện đang sinh sống tại Đài Loan. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 37, Điều 39, Điều 464 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
Tại phiên tòa, chị H vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh H1 vắng mặt lần thứ hai, căn cứ Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án theo quy định. Tòa án xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh H1 được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 05 tháng 12 năm 2014 tại UBND xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm trong cuộc sống cũng như công việc, anh H1 không chịu làm ăn, thường xuyên vay nợ khiến kinh tế gia đình khó khăn. Đến cuối năm 2015, anh H1 đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Từ khi đi nước ngoài, anh H1 không hề quan tâm, hỏi han gì đến vợ con và cũng chủ động cắt đứt liên lạc với chị H. Dù nhiều lần được bạn bè và gia đình khuyên nhủ để vợ chồng hàn gắn, tu dưỡng làm ăn nhưng anh H1 không đồng ý nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Sau đó, chị H đã xin phép mẹ chồng về nhà ngoại ở và vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Anh H1 khi biết tin cũng không quan tâm đến chị H mà đã chủ động cắt đứt liên lạc. HĐXX xét thấy, hôn nhân của chị H và anh H1 đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mỗi người ở một nước khác nhau, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị H ly hôn với anh H1 là phù hợp quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về quan hệ nuôi con chung: Vợ chồng chị H và anh H1 có 01 con chung là cháu Vũ Tuệ L, sinh ngày 21/02/2016. Hiện nay, cháu L đang ở cùng chị H và ông bà ngoại. Do cháu L vẫn còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc trực tiếp của mẹ. Bản thân chị H hiện nay cũng có nơi cư trú và việc làm ổn định có đủ khả năng để nuôi dưỡng chăm sóc cháu đầy đủ. Do đó, chị H đề nghị Tòa án cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy, việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha, mẹ. Bản thân chị H có chỗ ăn ở, có sức lao động nên đủ điều kiện nuôi con. Anh H1 đang lao động tại Đài Loan, chưa thể về nước. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung nên việc giao con chung cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình. Sau này, anh H1 có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết về việc thay đổi quyền nuôi con theo quy định. Do chị H tự nguyện tạm thời chưa yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nên Tòa án không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con chung, sau này chị H có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.
[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị H và anh H1 không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 464 và Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị H. Xử cho chị Phạm Thị H ly hôn anh Vũ Hữu H1.
2. Về quan hệ nuôi con chung: Giao cho chị Phạm Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Vũ Tuệ L, sinh ngày 21/02/2016 từ tháng 9/2022 đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Chị H tự nguyện không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con chung. Chị H có quyền khởi kiện yêu cầu anh H1 cấp dưỡng tiền nuôi con chung theo quy định của pháp luật.
Anh Vũ Hữu H1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm dân sự (Hôn nhân và gia đình), đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2021/0000026 ngày 31/3/2022. Chị H đã nộp đủ án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Chị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày; anh H1 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật
Bản án 185/2022/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 185/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về