TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 185/2021/HS-ST NGÀY 02/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 02 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 146/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2021/QĐXXST-HS ngày 12/3/2021 đối với bị cáo:
Phan Trung H, sinh năm 1999, tại Đồng Nai, tên gọi khác: Không. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 48/5B, tổ 4, khu phố 12, phường B, tỉnh Đồng Nai, nơi ở hiện nay: Không có nơi ở nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Nhân viên quán karaoke; trình độ học vấn: 12/12; con ông Phan Văn L, sinh năm 1971 (còn sống) và Trần Thị Kim Anh T, sinh năm 1971 (còn sống), gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ 2 trong gia đình, có vợ là chị Thạch Ngọc Trúc Đ, sinh năm 1999, có 01 người con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 19 tháng 12 năm 2020, chuyển tạm giam theo Lệnh số 57 ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa. (Bị cáo có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Phan Trung H là người sử dụng trái phép chất ma túy, để có ma túy sử dụng, khoảng 21 giờ 00 phút ngày 15 tháng 12 năm 2020, bị cáo đi đến khu vực ngã ba “Tam Hòa” thuộc phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai gặp người đàn ông tên Hùng (không rõ họ tên thật, địa chỉ) mua 01 gói ma túy tổng hợp (ma tuý loại Ketamine) và 01 viên nén màu xanh (ma tuý loại MDMA) với giá 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng), mục đích để sử dụng. Vào khoảng 10 giờ ngày 19 tháng 12 năm 2020 tại phòng VIP của nhà nghỉ Đồng Khởi 3 thuộc khu phố 12, phường B, thành phố H, bị cáo H đang để 01 gói ma túy tổng hợp (ma tuý loại Ketamine) và 01 mảnh vỡ của viên nén màu xanh (ma tuý loại MDMA) ở trên bàn trong phòng thì bị Công an phường An Bình kiểm tra, phát hiện bắt quả tang lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa giải quyết theo thẩm quyền.
Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.
Vật chứng vụ án:
- 01 (một) gói nylon được hàn kín chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong, có chữ ký của Phan Trung H và hình dấu của Công an phường An Bình – ký hiệu M1.
- 01 (một) gói nylon được hàn kín chứa một mảnh vỡ của viên nén màu xanh, có chữ ký của Phan Trung H và hình dấu của Công an phường An Bình – ký hiệu M2.
- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, số Imei: 866468036163212, có số thuê bao: 0325922327, là tài sản của bị cáo Phan Trung H, không liên quan đến việc phạm tội.
Tại Bản kết luận giám định số: 2873/KLGĐ-PC09 ngày 23/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận:
- Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong (ký hiệu M1) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,5403 gam, loại: Ketamine.
- Mẫu mảnh vỡ của viên nén màu xanh được niêm phong (ký hiệu M2) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1711 gam, loại: MDMA.
Tại bản Cáo trạng số: 176/CT/VKSBH-HS ngày 08/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Phan Trung H xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phan Trung H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù giam.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa tuyên tịch thu tiêu hủy toàn bộ khối lượng ma túy còn lại sau giám định. Trả 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, số Imei: 866468036163212, có số thuê bao: 0325922327 cho bị cáo H.
Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về việc truy tố của Viện kiểm sát, không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Kính mong hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và không ai có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Trên cơ sở khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có cơ sở xác định: Vào lúc 10 giờ ngày 19 tháng 12 năm 2020, tại phòng VIP của nhà nghỉ Đồng Khởi 3 thuộc khu phố 12, phường B, thành phố H, tỉnh Đồng Nai, Phan Trung H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,5403 gam ma túy loại Ketamine và 0,1711 gam ma túy loại MDMA thì bị bắt quả tang và xử lý theo quy định.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo H không thắc mắc gì đối với kết luận giám định.
Xét thấy, hành vi của bị cáo như đã nêu trên, đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Từ những căn cứ trên, xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân thành phố Biên Hòa đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.
[3] Về nhân thân, tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Bị cáo là người đã trưởng thành, có sức khỏe, có đầy đủ khả năng nhận thức pháp luật. Bị cáo biết tác hại của ma tuý gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá của con người, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, nhưng vẫn thực hiện hành vi vi pháp pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải nên giảm nhẹ phần nào mức hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo có nhân thân tốt, hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ đang điều trị bệnh ung thư, gia đình có con nhỏ, bị cáo lại là lao động chính trong gia đình, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi lượng hình phạt đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ khối lượng ma túy còn lại sau giám định. Trả 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, số Imei:
866468036163212, có số thuê bao: 0325922327 cho bị cáo H.
[7] Đối với người tên Hùng đã bán ma túy cho bị cáo H hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên toà phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Phan Trung H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Phan Trung H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 19/12/2020.
2. Về xử lý vật chứng : Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu huỷ 01 gói đã được niêm phong chứa ma tuý đã được hoàn lại sau khi giám định số 2873 ngày 23/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.
Trả 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, số Imei: 866468036163212, có số thuê bao: 0325922327 cho bị cáo Phan Trung H.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà).
3. Về án phí : Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Phan Trung H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 185/2021/HS-ST ngày 02/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 185/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về