Bản án 184/2019/HS-ST ngày 19/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 184/2019/HS-ST NGÀY 19/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 160/2019/HSST ngày 22 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 182/2019/HSST-QĐ ngày 05/6/2019 đối với bị cáo:

Lâm Thị Ngọc N, sinh năm 1986 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: 15/73 khu phố 2, phường B, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật; con ông Lâm P, sinh năm 1963 và con bà Trang Kim L, sinh năm 1969; có chồng tên Nguyễn Đình Duy Q và 06 người con, con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền sự: Không có.

Tiền án:

+ Ngày 18/6/2013 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm xử phạt bị cáo Lâm Thị Ngọc N 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng về tội Cướp giật tài sản, theo bản án số 373.

+ Ngày 11/8/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt bị cáo Lâm Thị Ngọc N 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp 01 năm tù tại bản án số 373/2013/HSPT ngày 18/6/2013 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Buộc bị cáo N chấp hành hình phạt chung 02 năm tù, theo bản án số 244.

+ Ngày 15/4/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt bị cáo Lâm Thị Ngọc N 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp 02 năm tù tại bản án số 244/2013/HSPT ngày 11/8/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai. Buộc bị cáo N chấp hành hình phạt chung 05 năm tù, theo bản án số 71.

Ngày 23/11/2018, bị cáo Lâm Thị Ngọc N được Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù 05 (năm) năm tù về tội Trộm cắp tài sản, theo bản án số 71/2015/HSPT ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, thời gian hoãn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/11/2018 đến 18/3/2021, theo quyết định số 12/QĐ-CA.

Bị cáo có mặt

- Bị hại: Chị Ngô Thị H, sinh năm 1964; thường trú: 81/2 khu phố B, phường H, thị xã K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lâm P, sinh năm 1963; thường trú: 15/73 khu phố 2, phường B, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn Đ, vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Lê Văn B, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 21/02/2019, bị cáo Lâm Thị Ngọc N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Atila Alizabet, biển số 60B1-48.934 đến chợ Đông Hòa địa chỉ khu phố Tân Hòa, phường Đông Hòa, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương mua túi xách. N dựng xe trước sạp bán túi xách của chị Ngô Thị H vào mua, gặp chị H đang nằm ngủ trên sàn nhà, xấp tiền 3.000.000 đồng trong túi quần bên trái của chị H rơi xuống nền nhà. N đến chỗ chị H dùng tay phải lấy xấp tiền bỏ vào túi áo khoác bên trái đi ra ngoài. Lúc này anh Nguyễn Văn Đ chồng chị H đi vào gặp N hỏi “cần mua gì” N lắc hai tay ra xe tẩu thoát bị anh Đ giữ lại truy hô, chị H thấy mất tiền trong túi nên chạy ra, N lấy số tiền 3.000.000 đồng trong túi áo khoác ném xuống đất. Chị H trình báo Công an phường Đông Hòa đến lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với N.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Atila Alizabet màu đỏ biển số 60B1-48934, số khung RLGKA12HDBD-061084, số máy VMVTBB-D061084; số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng)

Vật chứng đã được xử lý: 3.000.000 đồng trả lại cho bị hại Ngô Thị H; Xe mô tô nhãn hiệu Atila Alizabet màu đỏ biển số 60B1-48934, số khung RLGKA12HDBD-061084, số máy VMVTBB-D061084 trả ông Lâm P, do ông P không biết N sử dụng xe vào việc phạm tội.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Ngô Thị H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường.

Cáo trạng số 186/CT-VKS ngày 22/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lâm Thị Ngọc N về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, n, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo N từ 02 năm 6 tháng đến 3 năm tù, đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt tù 05 (năm) năm tại bản án Hình sự phúc thẩm số 71/2015/HSPT ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, buộc bị cáo N phải chấp hành hình phạt chung từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù.

Bị cáo N không tranh luận, không bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo N nói lời sau cùng: Rất ân hận việc làm của mình, hiện bị cáo đang mang thai đứa con thứ 7, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Xin hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ mức án thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ xác định bị cáo phạm tội: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 21/02/2019, lời khai bị hại, nhân chứng và lời khai tại phiên tòa bị cáo Lâm Thị Ngọc N thể hiện vào lúc 13 giờ 30 ngày 21/02/2019, bị cáo N có hành vi lén lút chiếm đoạt 3.000.000 đồng của chị Ngô Thị H, bị cáo N đã tái phạm, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Như vậy, hành vi trên của bị cáo N đủ yếu tố cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản” quy định điểm g (tái phạm nguy hiểm) khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 186/CT-VKS ngày 22/5/2019 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo N không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại; phạm tội khi đang có thai; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết giảm nhẹ trên được quy định điểm h,n, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo N có nhân thân rất xấu thể hiện việc liên tục phạm tội, thể hiện sự không hướng thiện cũng như việc chấp hành pháp luật.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Tội phạm do bị cáo N thực hiện là nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 07 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện phạm tội một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến tài sản của chị Ngô Thị H được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo N mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất mức độ tội phạm bị cáo thực hiện để sau này không vi phạm nữa.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Ngô Thị H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì khác. Do vậy, Hội đồng xét xử không xét.

[4] Đối với hình phạt 05 (năm) năm tù tại bản án Hình sự phúc thẩm số 71/2015/HSPT ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, bị cáo N chưa chấp hành. Vì vậy, Hội đồng xét xử tổng hợp hình phạt buộc bị cáo N phải chấp hành chung.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo. Xét quan điểm trên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận. Đối với mức hình phạt của bị cáo N từ 02 năm 6 tháng đến 3 năm tù có phần nghiêm khắc, Hội đồng xét xử xử phạt mức án bị cáo N thấp hơn so với mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo N phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Lâm Thị Ngọc N phạm tội Trộm cắp tài sản.

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173, điểm h, n, s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lâm Thị Ngọc N 02 (hai) năm tù. Tổng hợp hình phạt 05 (năm) năm tù tại bản án số 71/2015/HSPT ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai buộc bị cáo N chấp hành chung hình phạt là 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được tính trừ thời gian tạm giam từ ngày 07/01/2013 đến ngày 18/6/2013 và từ ngày 18/12/2013 đến ngày 20/12/2013.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14. Bị cáo Lâm Thị Ngọc N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ đến vụ án mặt vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 184/2019/HS-ST ngày 19/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:184/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;