TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 184/2017/DS-PT NGÀY 06/11/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 187/2017/TLPT-DS ngày 19 tháng 9 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 94/2017/DSST ngày 14/08/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 187/2017/QĐ-PT ngày 19 tháng 10 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê T C – sinh năm 1947 (có mặt) Địa chỉ: Ấp TP B, xã HT, tpcm, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn: Bà Trần M N – sinh năm 1962 (có mặt) Địa chỉ: Số 147, BTT, k4, p5, tpcm, tỉnh Cà Mau.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Tô V C - Văn phòng luật sư HL thuộc Đoàn luật sư Thành phố Cần Thơ. (có mặt)
- Người kháng cáo: Bà Trần M N – Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn bà Lê T C trình bày:
Vào năm 2011 bà Lê T C có cho bà Trần M N vay số tiền 150.000.000 đồng. Bà N có thanh toán cho bà C số tiền 50.000.000 đồng, khi vay có làm 03 biên nhận nợ ghi các ngày 22/5/2011 nợ 60.000.000 đồng, ngày 27/6/2011 nợ 40.000.000 đồng, ngày 31/5/2011 nợ 50.000.000 đồng. Mặc dù nhiều lần bà có yêu cầu bà N thanh toán số nợ trên nhưng bà N không hợp tác. Nay bà yêu cầu bà Trần M N thanh toán cho bà tổng số tiền 100.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.
Bị đơn bà Trần M N trình bày: Bà không thừa nhận số tiền đã vay của bà C như bà C yêu cầu.
Bà N cung cấp chứng cứ cho Tòa án như sau: 01 một biên nhận nợ giữa ông Trần M H nhờ bà Trần M N vay giùm số tiền 40.000.000 đồng lãi suất 08%/1 ngày hẹn 10 ngày sẽ thanh toán lại, ngày 27/6/2011. Hiện tại, ông H đã bỏ nơi cư trú nên bà phải thanh toán thay cho ông H. Bà trả lần thứ nhất biên nhận của bà Lê T C có nhận số tiền 03 chân hụi loại hụi 500.000 đồng hốt được 20.000.000 đồng năm 2013, tổng số tiền hụi chết là 1.500.000 đồng từ ngày 25/2/2013 đến 25/2/2015 tổng số tiền của 23 kỳ là 34.500.000 đồng và số tiền 02 chân hụi 1.000.000 đồng hốt được 29.800.000 đồng và mỗi tháng đóng hụi chết từ ngày 05/5/2014 đến ngày 05/5/2016, đóng 25 kỳ với số tiền 50.000.000 đồng và đóng lãi chế 7 C có nhận của em N 6.000.000 đồng vào ngày 25/6/2013. Tổng cộng số tiền trả được bằng 55.800.000 đồng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 94/2017/DSST ngày 14 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị C.
Buộc bà Trần M N thanh toán cho bà Lê T C số tiền là 100.000.000 đồng.
Ngày 25/8/2017 bà Trần M N kháng cáo với nội dung không đồng ý bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm bà N vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà N, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố Cà Mau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại phiên toà phúc thẩm bà Trần M N xác định giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, cụ thể là yêu cầu giám định lại chữ ký và chữ viết do không đồng ý kết quả giám định đồng thời yêu cầu hủy bản án sơ thẩm với lý do bản án sơ thẩm xét xử không khách quan.
Lý do bà N đặt ra để yêu cầu giám định lại là kết quả giám định không đúng thực tế vì chỉ giám định chữ viết mà không giám định chữ ký, không sử dụng mẫu so sánh do bà N cung cấp để giám định. Thấy rằng, theo kết quả giám định số 110- GĐ-2017 ngày 25/5/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau đã kết luận chữ viết ở mặt trước của 02 tờ biên nhận ngày 22/5/2011 và ngày 27/6/2011 so với các mẫu giám định là do một người viết ra; Xem xét kết quả giám định kết luận chữ viết tại các biên nhận nợ là do bà Trần M N viết ra, còn vấn đề bà N cho rằng chỉ trưng cầu giám định chữ viết mà không có giám định chữ ký nhưng thực tế Cơ quan chuyên môn đã xác định do đối với chữ ký của bà N là ở dạng chữ viết nên việc giám định chỉ ở dạng chữ viết, lý do này của bà N không có căn cứ nên không được chấp nhận.
Đối với lý do thứ hai bà N cho rằng Cơ quan chuyên môn không sử dụng mẫu so sánh do bà cung cấp để giám định nên bà không đồng ý. Xét việc sử dụng mẫu so sánh để giám định là thẩm quyền của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau và tại Công văn số 569 ngày 18/7/2017 của Cơ quan trên đã trả lời không chấp nhận mẫu so sánh do bà cung cấp do chưa đảm bảo để thực hiện giám định. Hơn nữa, yêu cầu giám định lại của bà N đã được Tòa án cấp sơ thẩm trước đây và CA Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau giải quyết không chấp nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm phía nguyên đơn không đồng ý yêu cầu giám định lại của bà N. Do vậy án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê T C cũng như không chấp nhận yêu cầu giám định lại của bà Trần Thị N là có căn cứ.
Đối với yêu cầu hủy án sơ thẩm tại tòa bà N xác định không yêu cầu mà chỉ yêu cầu xem xét chấp nhận việc giám định lại.
[2] Từ nhận định trên nên không chấp nhận ý kiến tranh luận của Luật sư và yêu cầu của bà N. Bà N cũng không cung cấp thêm được chứng cứ gì mới khác hơn ở cấp sơ thẩm nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên toà là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà N, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo nên bà N phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Trần M N.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 94/2017/DSST ngày 14 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị C.
Buộc bà Trần M N thanh toán cho bà Lê T C số tiền là 100.000.000 đồng.
Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần M N phải nộp 300.000 đồng, ông bà đã dự nộp 300.000 đồng tại biên lai số 0003619 ngày 11/9/2017 được chuyển thu án phí.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 184/2017/DS-PT ngày 06/11/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 184/2017/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 06/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về