TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 183/2020/HS-PT NGÀY 14/07/2020 VỀ TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ
Ngày 14 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 115/2020/TLPT- HS ngày 12 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo Mùa A K do có kháng cáo và kháng nghị đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 của Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa.
Bị cáo kháng cáo: Mùa A K - sinh ngày 10/02/1999; Tại Thanh Hóa; Trú tại: Bản T, xã S, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Trình độ học vấn:
9/12; Con ông Mùa A C (đã chết) và bà Sùng Thị D; có vợ là Thào Thị C; Có 02 con; Tiền án, Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo:
Ông Nguyễn Ngọc Khang, trợ giúp viên pháp lý, Chi nhánh số 1, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Cáo trạng và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 22h45 phút ngày 11/9/2019, tại khu vực bản K, xã X (Nay là thị trấn X), huyện Quan Hóa. Tổ công tác Công an huyện Quan Hóa kiểm tra và phát hiện Mùa A K đang vận chuyển 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất bột màu đen, đựng trong cốp xe mô tô BKS 36H5-005.60. Khi bị bắt, Mùa A K khai nhận đó là thuốc nổ tự chế tạo để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ vật chứng là vật liệu nổ có trọng lượng là 1,1kg, ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô BKS36H5- 005.60; 01 giấy phép lái xe mô tô, hạng A1; 01 đăng ký mô tô xe máy mang tên Lương Văn V. Tại bản kết luận giám định số 2273/PC09 ngày 09/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: 1,1kg (Một phẩy một kilogam) chất bột màu đen trong túi nilon màu trắng được niêm phong trong hộp catton kích thước (20x14x12)cm của vụ việc trên gửi giám định là thuốc nổ đen – thuộc vật liệu nổ.
Ngày 12/11/2019, Công an huyện huyện Quan Hóa đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc đến Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa để giải quyết theo thẩm quyền.
Quá trình điều tra, Mùa A K khai nhận về nguồn gốc số vật liệu nổ trên, đó là: Năm 2009, bố của Mùa A K chết, có để lại 01 khẩu súng kíp (Súng săn) khi còn sống ông đã dùng nó để đi săn bắn động vật trong rừng, tuy nhiên Mùa A Ctrước khi chết cũng không nói là giao khẩu súng này cho ai, nên gia đình Khai xem đó là vật kỷ niệm. Do nhận thức pháp luật còn hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có việc làm, nên Mùa A K đã nghĩ đến việc sẽ dùng khẩu súng này để đi săn bắn động vật trong rừng để làm thức ăn và bán lấy tiền để lo cho gia đình. Vào khoảng tháng 7/2019, trong một lần Mùa A K đi chợ L, thuộc xóm M, xã M, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, khai có nghe một người đàn ông mà Khai không quen biết nói chuyện là khu vực này có nhà ông Ybán thuốc nổ. Đến khoảng 08 giờ sáng ngày 06/9/2019, Mùa A K mượn xe máy BKS 36H5-005.60 của ông nội là Mùa A D(Có hộ khẩu và ở cùng với Khai) nói là đi chợ để mua đồ. Có xe, một mình Khai đi từ nhà ở Bản T, xã S, huyện Quan Hóa đến chợ L, thuộc xóm M, xã M, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình rồi hỏi thăm đường đến nhà ông Y để hỏi mua thuốc nổ, khi K đến nhà ông Y, lúc này khoảng 09 giờ cùng ngày, Khai không thấy ông Y ở nhà mà thấy 01 người phụ nữ (Khai không biết tên, tuổi, địa chỉ) đang đứng ở phía trước nhà ông Y, nên K đã nói chuyện với người này là nghe nói ở đây có bán thuốc nổ để làm thuốc súng săn bắn động vật nên đến đây để mua. Qua trao đổi, người phụ nữ này hỏi K mua nhiều không? Khai đặt vấn đề mua 01kg, người phụ nữ này nói mức giá, nếu mua 01kg thì hết 140.000đ (Một trăm bốn mươi nghìn đồng). Khai đồng ý mua 01kg thuốc nổ với người này và thanh toán số tiền 140.000đ (Một trăm bốn mươi nghìn đồng). Sau khi mua được thuốc nổ, Mùa A K đem về nhà trộn với khoảng 200gam than củi, rồi đem giã tại cối của gia đình, rồi trộn lẫn vào với nhau tạo thành thuốc nổ đen, dùng cho súng kíp (Súng săn). Sau khi đã chế tạo xong số thuốc nổ trên, Khai bỏ toàn bộ thuốc nổ đó vào một túi nilon màu trắng và cất vào cốp xe máy BKS 36H5-005.60. Tối ngày 11/9/2019, sau khi ăn cơm tại nhà xong, Mùa A K dùng xe máy (Đã bỏ sẵn thuốc nổ trong cốp xe) để đi đến xã T, huyện Quan Hóa để đi săn bắn, trên đường đi đến bản K, thị trấn X, huyện Quan Hóa, do không đội mũ bảo hiểm xe máy nên Khai bị Tổ công tác Công an huyện Quan Hóa kiểm tra, phát hiện và bị bắt quả tang toàn bộ số thuốc nổ.
Đồng thời, Mùa A K khai nhận lý do biết chế tạo thuốc nổ là lúc bố Khai còn sống Khai xem bố chế tạo nên Khai học theo và biết.
Quá trình điều tra, ngày 15/10/2019, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành thu giữ tại nhà Mùa A K, tại Bản T, xã S, huyện Quan Hóa 01 khẩu súng (Dạng súng kíp) do Mùa A K tự nguyện giao nộp và tại hiện trường nơi Mùa A K chế tạo thuốc nổ đã phát hiện có chất màu đen bám dính vào mặt cối, chày gỗ do Mùa A K chế tạo còn sót lại, Cơ quan Anh ninh điều tra đã tiến hành thu giữ, niêm phong chất bột màu đen nói trên, có trọng lượng là 7,03g (Bảy phẩy không ba gam) Tại bản kết luận giám định số 22/PC09 ngày 20/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: 01 khẩu súng không có ký hiệu, bằng kim loại màu đen, dài 155,5cm trong vụ việc gửi giám định là súng kíp, thuộc loại súng săn – không phải là vũ khí quân dụng.
Tại bản kết luận giám định số 2394/PC09 ngày 30/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Chất bột màu đen được niêm phong trong 01 phong bì do Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành của vụ việc trên gửi giám định (Chất bột màu đen bám dính vào bề mặt cối, chày gỗ, do Mùa A K chế tạo còn sót lại là 7,03gam) là thuốc nổ đen – thuộc vật liệu nổ.
Bản án số 07/2020/HS-ST ngày 07 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa đã quyết định:
Căn cứ vào: Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự;
Khoản 1 điều 305; Điều 38; Điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự;
Tuyên bố: Bị cáo Mùa A K phạm tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu nổ”.
Xử phạt: Bị cáo Mùa A K 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 12/5/2020, bị cáo kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
Ngày 14/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quan Hóa kháng nghị phúc thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án HSST, áp dụng thêm khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS đối với bị cáo Mùa A Khai; cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo; Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung kháng nghị.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1, khoản 2 Điều 357 BLTTHS; chấp nhận kháng nghị của VKS và kháng cáo của bị cáo giữ nguyên hình phạt tù và cho hưởng án treo đối với bị cáo Mùa A K về tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu nổ” theo quy định tại khoản 1 Điều 305 BLHS.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Ngày 06/9/2019, Mùa A K đi xe máy sang xóm M, xã M, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình mua của một người phụ nữ không quen biết 01kg thuốc nổ với giá là 140.000đ (Một trăm bốn mươi nghìn đồng), sau đó Mùa A K đem về nhà trộn với khoảng 200 gam than củi, bỏ vào cối, giã đều chế tạo thành thuốc nổ đen, mục đích để dùng làm đạn của súng kíp (Súng săn), để đi săn thú hoang trong rừng, khi chế tạo xong, bị cáo bỏ vào túi nilon và bỏ vào cốp xe máy của ông nội để tại nhà. Tối 11/9/2019, bị cáo đã lấy xe máy đi sang xã T, huyện Quan Hóa để đi săn thú, khi đi đến bản K, xã X, thị trấn Quan Hóa (Nay là bản K, thị trấn X) thì bị Công an huyện Quan Hóa phát hiện và bắt quả tang, thu giữ là 1,1kg thuốc nổ của Mùa A K đang bỏ trong cốp xe máy. Ngoài ra khi cơ quan chức năng khám xét tại nhà bị cáo còn thu giữ được 0,703 gam thuốc nổ đang còn dính lại chày, cối nơi bị cáo chế tạo thuốc nổ.
Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu nổ” theo quy định tại khoản 1 Điều 305 BLHS là đúng người, đúng tội.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo, đồng ý với tội danh mà bản án sơ thẩm đã tuyên và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
[2]. Xét kháng nghị và kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo:
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến an toàn công cộng và các quy định của Nhà nước về chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán và quản lý các vật liệu nổ; gây mất trật tự trị an chung. Khi quyết định hình phạt án sơ thẩm đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xét xử đối với bị cáo. Tại giai đoạn phúc thẩm Ban quản lý bản – Đoàn thanh niên Bản T, xã S, huyện Quan Hóa có Đơn đề nghị cấp phúc thẩm xử cho bị cáo được hưởng án treo vì trước khi phạm tội Mùa A K là công dân tốt thực hiện đầy đủ các quy định tại nơi cư trú và chưa vi phạm pháp luật lần nào, gia đình Mùa A K kinh tế đặc biệt khó khăn thuộc diện hộ nghèo, là dân tộc thiểu số H’ Mông nhận thức pháp luật hạn chế, đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS mới cho bị cáo theo khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự. Do đó, thống nhất với quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tỉnh Thanh Hóa, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của bị cáo về việc giữ nguyên hình phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, sớm cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Về án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí HSPT; căn cứ điểm d khoản 2 Điều 23 NQ 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của BLTTHS. Điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
1. Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của bị cáo Mùa A Khai. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 07/2020/HS-ST ngày 07 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa về giữ nguyên hình phạt và cho hưởng án treo.
Căn cứ khoản 1 Điều 305; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Mùa A K 13 (Mười ba) tháng tù cho hưởng án treo về tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu nổ”. Thời gian thử thách là 26 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Trong thời gian thử thách giao bị cáo Mùa A K cho Ủy ban nhân dân xã S, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa để giám sát, giáo dục.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí: Bị cáo Mùa A K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 183/2020/HS-PT ngày 14/07/2020 về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu nổ
Số hiệu: | 183/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/07/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về