Bản án 182/2021/HNGĐ-ST ngày 28/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 182/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

 Ngày 28 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 177/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2021 về việc tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 240/2021/QĐ-ST ngày 22 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số ngày 12 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Diệu H, sinh năm 1993; địa chỉ: ấp L.H, xã L.G, huyện C.M, tỉnh An Giang. Chổ ở: số 209, tổ 7, ấp L.T, xã L.G, huyện C.M, tỉnh An Giang, (Có mặt).

Bị đơn: Anh Trần Thanh T, sinh năm 1986; địa chỉ: ấp L.H, xã L.G, huyện C.M, tỉnh An Giang, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện đề ngày 05/3/2021, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn huỳnh Thị Diệu H trình bày, Chị và anh Trần Thanh T quen biết, sau thời gian cùng tìm hiểu, cả hai tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn theo quy định tại UBND xã L.G, huyện C.M vào năm 2012, cả hai sống hạnh phúc đến cuối năm 2020 thì phát sinh mâu thuẩn do không tôn trọng, thường xuyên mâu thuẩn, bất đồng quan điểm thường xuyên cự cãi, đã ly thân từ đó cho đến nay. Nay thấy tình cảm không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên chị xin ly hôn với anh Tuấn.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Thanh Tuấn H1, sinh ngày 08/10/2011 và Trần Thị Kim N, sinh ngày 25/6/2013, hiện đang sống cùng anh T, cha mẹ anh T. Sau khi ly hôn, chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, tại phiên hòa giải ngày 12/4/2021, chị H xin rút lại yêu cầu nuôi các con chung, chị đồng ý để anh T và gia đình anh T được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 cháu Trần Thanh Tuấn H1, sinh ngày 08/10/2011 và Trần Thị Kim N, sinh ngày 25/6/2013; chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp: Bản photo giấy CMND Huỳnh Thị Diệu H, bản sao sổ hộ khẩu; Bản sao Giấy khai sinh của Trần Thanh Tuấn H1, sinh ngày 08/10/2011 và Trần Thị Kim N, sinh ngày 25/6/2013; Tờ tự khai và đơn khởi kiện ngày của Huỳnh Thị Diệu H ngày 05/3/2021;

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp hòa giải để động viên các bên có thể giải quyết các bất đồng quan điểm, hàn gắn đoàn tụ với nhau nhưng phía bị đơn Trần Thanh T không có mặt theo giấy triệu tập nên không thể tiến hành hòa giải được. Ngày 14 tháng 4 năm 2021, anh T có văn bản thể hiện ý kiến phản hồi, với nội dung đề nghị Tòa án xem xét yêu cầu xin ly hôn của chị H; có ý kiến, nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung. Các cháu Trần Thanh Tuấn H, sinh ngày 08/10/2011 và Trần Thị Kim N, sinh ngày 25/6/2013 cũng có ý kiến thể hiện sau khi cha mẹ ly hôn có nguyện vọng sống cùng cha và ông, bà Nội.

Tại phiên tòa, chị Huỳnh Thị Diệu H có mặt, giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh Trần Thanh T; đồng ý đế anh Tuấn, gia đình anh T được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung, chị H không cấp dưỡng nuôi con.

Bị đơn Trần Thanh T vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Các bên không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn, nguyện vọng nuôi con chung được xác định là tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn Trần Thanh T, sinh năm 1986, nơi cư trú tại xã L.G, huyện C.M, tỉnh An Giang. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện C.M, tỉnh An Giang theo quy định tại các Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự: Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định pháp luật cho các bên đương sự. Tại phiên tòa lần thứ nhất được mở vào ngày 12/5/2021, bị đơn vắng mặt không rõ lý do thuộc trường hợp hoãn phiên tòa.

Phiên tòa được mở lại lần thứ hai ngày 28/5/2021, Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vẫn tiếp tục vắng mặt.

Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Về tính hợp pháp: Chị H, anh T quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân dựa trên sự tự nguyện, không có yếu tố lừa dối hay ép buộc, thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân tại UBND xã L.G, huyện C.M vào ngày 09 tháng 5 năm 2012, phù hợp với trích lục Giấy chứng nhận kết hôn mà chị H cung cấp có trong hồ sơ. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân giữa chị H, anh T là hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.

[2.2] Về tình trạng hôn nhân:

Thời gian đầu sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng giữa chị H, anh T hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, mối quan hệ vợ chồng trở nên căng thẳng, mâu thuẩn ngày càng gay gắt khi luôn xảy ra cự cãi; vợ chồng không còn sống chung từ đó đến nay, kể từ thời điểm ly thân, cả hai ít liên lạc qua lại, không dành sự quan tâm, yêu thương lẫn nhau mà thay vào đó là dùng những lời lẽ lớn tiếng lăng mạ, xúc phạm nhau, thể hiện mâu thuẩn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không còn hạnh phúc, không còn sự quan tâm, chia sẻ, yêu thương lẫn nhau.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập đến phiên hòa giải để động viên các bên hàn gắn tình cảm, xóa bỏ những mâu thuẩn, bất đồng đã xảy ra, vận động vợ chồng cùng chung sống với nhau nhưng anh T đều vắng mặt. Tuy nhiên, căn cứ vào lời trình bày của chị H thể hiện mâu thuẩn vợ chồng nghiêm trọng, âm ĩ, khó có thể hàn gắn, thời gian qua anh T cũng không đưa ra căn cứ, biện pháp gì nhằm cải thiện đời sống chung của vợ chồng, hiện nay vợ chồng tiếp tục tình trạng sống ly thân, không quan tâm đến nhau, cuộc sống của mỗi người thể hiện tính riêng lẽ, không còn gắn kết, không còn mục tiêu để xây dựng một gia đình hạnh phúc; anh T cũng có đơn đề nghị Tòa án xem xét yêu cầu của chị H theo quy định pháp luật. Điều đó, chứng tỏ mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận khởi kiện cho chị Huỳnh Thị Diệu H được ly hôn anh Trần Thanh T là phù hợp.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Thanh Tuấn H1, sinh ngày 08/10/2011 và Trần Thị Kim N, sinh ngày 25/6/2013, hiện đang sống cùng anh T, cha mẹ anh T. Sau khi ly hôn, chị H đồng ý để anh T và gia đình anh T được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 cháu Trần Thanh Tuấn H1, sinh ngày 08/10/2011 và Trần Thị Kim N, sinh ngày 25/6/2013; chị H không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Trần Thanh T có ý kiến phản hồi, với nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung. Các cháu Trần Thanh Tuấn H, sinh ngày 08/10/2011 và Trần Thị Kim N, sinh ngày 25/6/2013 cũng có ý kiến thể hiện sau khi cha mẹ ly hôn có nguyện vọng sống cùng cha và ông, bà Nội. Việc giao con chưa thành niên cho vợ hay chồng nuôi cần xem xét đến điều kiện phát triển của con chưa thành niên, nguyện vọng của cháu theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đánh giá những thuận lợi, lợi ích từ việc giao con chưa thành niên cho bên vợ hay chồng nuôi dưỡng cần xem xét, phân tích đến điều kiện phát triển của con chưa thành niên và nguyện vọng của cháu theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, chị H đồng ý để anh T và gia đình anh T được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 cháu Trần Thanh Tuấn H1, sinh ngày 08/10/2011 và Trần Thị Kim N, sinh ngày 25/6/2013. Anh Trần Thanh T có ý kiến phản hồi, với nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung. Các cháu Trần Thanh Tuấn H1, sinh ngày 08/10/2011 và Trần Thị Kim N, sinh ngày 25/6/2013 cũng có ý kiến thể hiện sau khi cha mẹ ly hôn có nguyện vọng sống cùng cha và ông, bà Nội. Do đó, cần ổn định cuộc sống, ổn định tâm lý của cháu, tiếp tục giao các cháu cho anh T chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Các đương sự không yêu cầu, đề cập việc cấp dưỡng nuôi con, nên không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu, Tòa án không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí: chị Huỳnh Thị Diệu H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 273; khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Diệu H. Cho chị Huỳnh Thị Diệu H được ly hôn với anh Trần Thanh T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 96 do Ủy ban nhân dân xã L.G, huyện C.M cấp ngày 09/5/2012 cho chị Huỳnh Thị Diệu H với anh Trần Thanh T, không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Giao con chung cháu Trần Thanh Tuấn H1, sinh ngày 08/10/2011 và Trần Thị Kim N, sinh ngày 25/6/2013 cho anh Trần Thanh T được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục; anh Nguyễn Minh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Không bên nào được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không có, nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Huỳnh Thị Diệu H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ từ số tiền tạm ứng án phí sang theo biên lai thu số 0006727 ngày 19 tháng 3 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; chị Huỳnh Thị Diệu H đã nộp xong.

5. Quyền kháng cáo: Chị Huỳnh Thị Diệu H có mặt, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh Trần Thanh Tuấn vắng mặt, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 182/2021/HNGĐ-ST ngày 28/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:182/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;