Bản án 182/2020/HS-PT ngày 02/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 182/2020/HS-PT NGÀY 02/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 02 tháng 03 năm 2020, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 177/2020/TLHS- PT ngày 10 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị Phương A1 và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 301/2019/HS-ST ngày 24/12/2019 của Tòa án nhân dân quận CG, thành phố Hà Nội.

- Các bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thị Phương A1, sinh năm 1998; Nơi ĐKHKTT: số 158 MT, phường THĐ, thành phố NĐ, tỉnh NĐ; Nơi ở: P403 số 03 ngõ 52 đường MĐ, phường MĐ 2, quận NTL, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp Không; trình độ văn hoá (học vấn) 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Minh Đ1 và con bà Lê Thị Bích N1; chưa có chồng con; Tiền án, tiền sự: Không. Hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; (Có mặt).

Lê Văn L1, sinh năm 1997; Nơi ĐKHKTT: Xóm C1, xã HH, huyện TT, thành phố Hà Nội; Nơi ở: số 72 TTO, xã TO, huyện huyện TT, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp Không; trình độ văn hoá (học vấn) 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H1 và con bà Tưởng Thị M1; chưa có vợ con; Không Hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 08 giờ 45 phút ngày 17/8/2019, Tổ công tác CAP Trung Hòa thuộc Công an quận CG, thành phố Hà Nội phối hợp với Tổ công tác C3D1 - PK02E - CATP Hà Nội làm nhiệm vụ tại khu vực trước số 2A TDH, phường TH, quận CG, thành phố Hà Nội phát hiện Lê Văn L1 điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda SH, BKS: 29M1-530.06 chở Nguyễn Thị Phương A1 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện có 04 (Bốn) túi nilon chứa tinh thể màu trắng và 01 (Một) túi nilon chứa 02 (Hai) viên nén màu xanh bên trong túi xách trước ngực của Phương A1 . Tại chỗ, Phương A1 và L1 khai nhận số tinh thể màu trắng và viên nén trên đều là ma túy tổng hợp mục đích để sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản thu giữ, niêm phong tang vật đồng thời đưa Phương A1 và L1 về trụ sở Công an phường TH làm rõ.

Ngoài ra, tổ công tác thu giữ của Lê Văn L1: 01 (xe máy nhãn hiệu Honda SH, BKS: 29M1-530.06; 01 đăng ký xe máy mang tên Lê Văn L1; 01 điện thoại Iphone X dung lượng 64G màu đen có số IMEI: 359408085649152 lắp sim số: 0916.562.500; thu giữ của Nguyễn Thị Phương A1: 01 tú xách; 01 điện thoại Iphone 6 màu vàng, dung lượng 128G, lắp sim số: 0949.383.526.

Tại bản kết luận giám định số 5397/KLGĐ-PC09 ngày 23/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- 02 (Hai) viên nén màu xanh bên trong có 01 túi nilon đều là loại ma túy MDMA tổng khối lượng 0,978 gam.

- Tinh thể trắng bên trong 04 túi nilon đều là ma túy loại Ketamine tổng khối lượng 5,676 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Phương A1 khai nhận như sau: Khoảng 22 giờ ngày 16/8/2019, Phương Anh gọi điện thoại cho Lê Văn L1 (Là người yêu cầu Phương A1) bảo đến nhà trọ tại P403 số 03 ngõ 52 đường MĐ, phường MĐ 2, quận NTL, thành phố Hà Nội đón Phương A1 chở đi mua ma túy về sử dụng, L1 đồng ý. Sau đó Long mượn xe máy Honda SH, BKS: 29M1-530.06 của bà Tưởng Thị M1 (Là mẹ của L1) để đón Phương A1 thì Phương A1 bảo đến khu vực gầm cầu LB - Hà Nội để mua 4.000.000 đồng tiền ma túy tổng hợp, mỗi người góp 2.000.000 đồng. Do L1 không có tiền nên bảo Phương A1 ứng trước. Phương A1 đồng ý rồi cả hai đến khu vực gầm cầu LB. Tại đây, L1 và Phương A1 gặp một đôi nam nữ khoảng 30 tuổi đang ngồi trên xe máy, Phương A1 mua được 04 túi nilon chứa tinh thể màu trắng là “Ketamine” và 01 túi nilon chứa 03 viên nén màu xanh là “Kẹo” của đôi nam nữ trên với giá 4.000.000 đồng. Phương A1 cầm số ma túy mua được cất vào túi xách đeo trên người rồi bảo L1 tiếp tục điều khiển xe đến khu vực phố NNV - quận CG, thành phố Hà Nội thuê phòng để sử dụng ma túy (Phương A1 và L1 không nhớ rõ địa chỉ nhà nghỉ thuê phòng). Tại đây, Phương A1 và L1 mỗi người sử dụng 1/2 viên ma túy “Kẹo” cùng một phần ma túy “Ke”, còn lại 04 túi “Ke” và 01 túi nilon chứa 02 viên ma túy “Kẹo”, Phương A1 cất trong túi xách. Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 17/8/2019, Phương A1 và L1 xuống trả phòng, L1 chở Phương A1 đến trước 2A TDH thì bị lực lượng công an kiểm tra, phát hiện và thu giữ số ma túy nêu trên.

Lê Văn L1 khai phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị Phương A1. Lời khai nhận tội của Lê Văn L1 và Nguyễn Thị Phương A1 phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đối với hai đối tượng bán ma túy cho Nguyễn Thị Phương A1 và Lê Văn L1, do không có thông tin cụ thể về tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH, màu đen, BKS: 29M1-530.06, có số khung RLHKF1433FY036406, số máy KF14E0136472, xác minh tại Phòng cảnh sát giao thông - Công an thành phố Hà Nội cho kết quả chủ xe mang tên Lê Văn L1. L1 khai đây là xe máy của bà Tưởng Thị M1 (mẹ L1) mua, do tuổi cao nên để L1 đứng tên, ngày 16/8/2019 Long mượn xe máy đi chơi. Bà Tưởng Thị M1 khai phù hợp với lời khai của L1 và có đơn xin lấy lại chiếc xe trên. Xét việc bà M1 không biết L1 mượn xe để đi mua ma túy nên ngày 11/11/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 249 trả lại chiếc xe máy trên và đăng ký xe cho bà M1.

Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone 6 màu vàng thu giữ của Nguyễn Thị Phương A1 và 01 chiếc điện thoại Iphone X màu đen thu giữ của Lê Văn L1, quá trình điều tra xác định cả hai đã sử dụng điện thoại để liên lạc rủ nhau đi mua ma túy.

Tại bản cáo trạng số 313/CT-VKSCG ngày 20/11/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận CG đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Phương A1 và Lê Văn L1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại bản án số 301/2019/HS-ST ngày 24/12/2019 của Tòa án nhân dân quận CG, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Phương A1 và bị cáo Lê Văn L1 phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

Áp dụng: điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Thị Phương A1 36 (Ba mươi sau) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/8/2019 đến ngày 23/8/2019.

Áp dụng: điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, V khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Lê Văn L1 32 (Ba mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/8/2019 đến ngày 23/8/2019.

Ngoài ra bản án còn tuyên về phần án phí, quyền kháng cáo cho các bị cáo.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 25/12/2019, các bị cáo Nguyễn Thị Phương A1, Lê Văn L1 đã có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Phương A1, Lê Văn L1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kết luận vụ án và đề nghị:

- Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.

- Về nội dung: Hai bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,978g MDMA và 5,676g Ketamine. Hội đồng xét xử sơ thẩm xử các bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" là có căn cứ, đúng pháp luật. Mức án Hội đồng xét xử sơ thẩm xử phạt các bị cáo là phù hợp. Tại phiên tòa các bị cáo không có tình tiết gì mới. Đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí: Do kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận, nên các bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của Nguyễn Thị Phương A1 và Lê Văn L1 trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo Nguyễn Thị Phương A1, Lê Văn L1 tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 08 giờ 45 phút ngày 17/8/2019 tại khu vực số 2A TDH, phường TH, quận CG, thành phố Hà Nội, tổ công tác Công an phường Trung Hòa, Công an quận CG phối hợp với tổ công tác C3D1 - PK 02E Công an thành phố Hà Nội bắt quả tang Nguyễn Thị Phương A1 và Lê Văn L1 có hành vi tàng trữ trái phép 0,978 gam MDMA và 5,676 gam Ketamine mục đích để sử dụng. Hành vi của các bị cáo đã bị Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xét xử về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Các bị cáo biết rõ tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu của bản thân các bị cáo vẫn tàng trữ trái phép 0,978g MDMA và 5,676g Ketamine. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ phạm tội và và xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phương A1 36 (Ba mươi sau) tháng tù, bị cáo Lê Văn L1 32 (Ba mươi hai) tháng tù là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ các bị cáo không có tình tiết tăng nặng có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối hận, nhân thân các bị cáo chưa có tiền án tiền sự, bị cáo Long có ông là người có công với cách mạng; bản thân bị cáo L1 có nhiều thành tích trong các giải thể thao trong nước và quốc tế. Bị cáo Phương A1 có ông nội, ông ngoại là người có công với cách mạng, bố của bị cáo được trao tặng huy hiệu 30 năm tuổi Đảng, bản thân bị cáo có nhiều thành tích trong học tập. Nên cần chấp nhận kháng cáo của hai bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho hai bị cáo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí: Do kháng cáo của các bị cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Thị Phương A1, Lê Văn L1. Sửa bản án sơ thẩm số 301/2019/HS-ST ngày 24/12/2019 của Tòa án nhân dân quận CG, thành phố Hà Nội về phần quyết định hình phạt.

Tuyên bố: Nguyễn Thị Phương A1, Lê Văn L1 phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Phương A1 , 28 (Hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/8/2019 đến ngày 23/9/2019.

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn L1, 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/8/2019 đến ngày 23/9/2019.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Các Bị cáo không phải nộp án phí Hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 182/2020/HS-PT ngày 02/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:182/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;