Bản án 182/2018/HS-ST ngày 21/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 182/2018/HS-ST NGÀY 21/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 184/2018/TLST - HS ngày 09 tháng 11 năm 2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:182/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 11 năm 2018, đối với bị cáo sau đây:

Họ và tên: Lò Văn S (tên gọi khác: Không) sinh 01/01/1973; Nơi sinh: Sông Mã- Sơn La. Nơi cư trú: Bản P, xã NT, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 4/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ Đảng phái, Đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn Th và bà Lò Thị L; Vợ: Lò Thị T (đã chết), có 04 con (lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2011). Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2007 đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Sơn La. Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/8/2018 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 30 phút, ngày 09/8/2018 tổ công tác Công an huyện Sông Mã phối hợp với Ban Công an xã NT làm nhiệm vụ tại bản P, xã NT, huyện Sông Mã phát hiện, bắt quả tang Lò Văn S có hành vi cất giấu trái phép chât ma túy. Vật chứng thu giữ: Thu tại vành mũ lưới chai S đang đội 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa chất bột liên kết trắng và 02 viên nén màu hồng theo S khai nhận là Heroine và Hồng phiến, ngoài ra còn thu giữ 01 chiếc mũ lưỡi chai có dòng chữ TOMMY.

Ngày 13/8/2018 tại Phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng vật chứng va trich mâu giam đinh , kết quả: Cân tịnh số bột liên kết màu trắng có khối lượng là 0,28 gam đã sử dụng hết để gửi giám định ký hiệu S1, 02 viên nén màu hồng có khối lượng là 0,20 gam đã sử dụng hết làm mẫu gửi giám định ký hiệu S2.

Tại bản kết luận giám định số 957 ngày 15/8/2018 của Phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu trích để giám định ký hiệu S1 là chất ma túy; Loại Heroine; khối lượng là 0,28gam. Mẫu trích để giám định ký hiệu S2 là chất ma túy; Loại Methamphetamine; khối lượng là 0,20gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,28gam loại Heroine và 0,20 gam loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra bị can khai nhận: Khoảng 06 giờ ngày 09/8/2018 Lò Văn S đem theo số tiền 200.000đ đi bộ từ nhà lên lán ruộng cách nhà khoảng 01km để xem ruộng và tìm mua ma túy để sử dụng. Sau khi xem ruộng, S đi bộ sang bản Long Nghịu, xã NT để tìm mua ma túy, trên đường đi đến gần bản Long Nghịu S gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không biết 01 gói Heroine và 02 viên Hồng phiến được gói bằng nilon màu hồng với số tiền 200.000đ. Mua được ma túy S về lán ruộng và trích một ít Heroine sử dụng bằng cách tiêm chích vào cơ thể. Sử dụng xong S gói số Heroine và Hồng phiến chung lại với nhau bằng nilon màu hồng rồi giấu vào vành mũ lưỡi chai đi về, khi đến khu vực bản P, xã NT thì bị tổ công tác Công an huyện Sông Mã và Ban Công an xã NT kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại bản cáo trạng số: 145/CT-VKSSM, ngày 07/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo Lò Văn Sương về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đối với người đàn ông dân tộc Mông bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo, ngoài lời khai của bị cáo ra không có căn cứ nào khác, nên CQĐT không xác định được đối tượng cụ thể, nên không có căn cứ để xử lý.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt: Lò Văn S từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 túi Nilon màu trắng, 02 mảnh nilon màu đỏ, 01 vỏ phong bì thư và 01 mũ vải hiệu TOMMY.

Bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng đã truy tố và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa, không có tranh luận gì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ và các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, lời khai của bị cáo tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy nhưsau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ sau: Ngày 09/8/2018 bị cáo Lò Văn S đã có hành vi mua 01 gói Heroine có khối lượng 0,28 gam và 0,20 gam methamphetamine với mục đích để sử dụng, trên đường vận chuyển về thì bị phát hiện bắt quả tang.

- Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 08 giờ 35 phút ngày 09/8/2018; Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng vật chứng thu giữ; Kết luận giám định số 957 ngày 15/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La xác định là chất ma túy thuộc loại Heroine có khối lượng 0,28 gam và 0,20 gam methamphetamine, cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ.

Tại phiên tòa bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Lò Văn S đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự, như vậy quan điểm truy tố của vị đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và điều luật viện dẫn áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.

 [3] Tính chất và mức độ của hành vi phạm tội: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng mặc dù nhận thức được mọi hành vi liên quan đến chất ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, do đó cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, đảm bảo biện pháp răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

 [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng có nhân thân xấu: Năm 2007 bị cáo đã từng được đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Sơn La nhưng vẫn không có ý thức tu dưỡng và rèn luyện bản thân thành người có ích cho xã hội mà lại tiếp tục thực hiện tội phạm.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, nhận tội là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, không có khả năng thi hành nên không áp dụng đối với bị cáo là phù hợp.

 [6] Về các đối tượng, tình tiết có liên quan: Đối với người đàn ông dân tộc Mông bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo, ngoài lời khai của bị cáo ra không có căn cứ nào khác, CQĐT không xác định được đối tượng cụ thể, nên không có căn cứ để xử lý là đúng quy định của pháp luật.

 [7] Về vật chứng của vụ án: Số ma túy đã sử dụng làm mẫu gửi giám định hết, còn lại 01 túi Nilon màu trắng, 02 mảnh nilon màu đỏ, 01 vỏ phong bì thư và 01 mũ vải hiệu TOMMY là những vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

 [8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn S 22 (hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/8/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Vật chứng: Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư mặt trước có ghi Vật chứng vụ: Lò Văn S, SN 1973 ở bản P, NT, Sông Mã, Sơn La. Hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Gồm: 01 túi Nilon màu trắng, 02 mảnh nilon màu đỏ, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở. (Phong bì được niêm phong đúng quy định của pháp luật) và và 01 mũ vải hiệu TOMMY màu đen, cũ, đã qua sử dụng. (Theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản ngày 30/10/2018 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Lò Văn S phải chịu là 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. 

5. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21/11/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 182/2018/HS-ST ngày 21/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:182/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;