Bản án 18/2021/HS-ST ngày 22/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 198/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Tiến C, sinh năm 1993 tại Tiền Giang; nơi đăng ký thường trú: xã A, thị xã B, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H, sinh năm 1964 và bà: Trần Thị Mộng T, sinh năm 1976; có vợ: Hồ Thị Thanh T, sinh năm 1991 và 02 con: lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2018; tiền án: không; tiền sự: Quyết định số 102/QĐ-TA ngày 19/7/2018 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng; tạm giữ, tạm giam: 29/6/2020. Có mặt.

2. Dương Đức T, sinh năm 1991 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: phường C, thành phố D, tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Phường I, quận K, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: bảo vệ dân phố; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Đức T, sinh năm 1966 và bà: Võ Thị Ngọc X, sinh năm 1971; vợ, con: không có; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: 30/6/2020. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Võ Thị Ngọc X, 1971, nơi cư trú: Phường I, quận K, Tp. Hồ Chí Minh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 29/6/2020, Công an Phường 3, quận Tân Bình kiểm tra hành chính phòng 205, khách sạn X, địa chỉ: 71/2/3 đường Y, Phường L, quận K phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Tiến C có hành vi cát giấu trái phép chất ma túy để sử dụng, thu giữ trong bóp da C đang cầm trên tay có 05 gói nylon chứa tinh thể không màu. Kết luận giám định số 1116/KLGĐ-H ngày 07/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon có viển màu đỏ được hàn kín là chất ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, có khối lượng 2,0799 gam; tinh thể không màu trong 04 gói nylon còn lại là chất ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,4864 gam.

Quá trình điều tra, Nguyễn Tiến C khai nhận: Ngày 28/6/2020, Nguyễn Tiến C đến nhà Dương Đức T tại số 149/55A đường X, Phường I, quận K. Cả hai cùng rủ nhau góp 600.000 đồng/người để mua ma túy về sử dụng. T gọi điện cho đối tượng tên H (không rõ lai lịch) để hỏi mua ma túy đá, hai bên hẹn nhau tại khu vực chung cư trên đường A (không nhớ địa chỉ). H đưa cho T 01 gói nylon có viền đỏ chứa ma túy đá với giá 1.200.000 đồng rồi mang về nhà T. Khi về đến nơi, T thấy có bạn của C tên T1 (không rõ lai lịch) đến tìm C. C và T không muốn Trang biết cả hai sử dụng ma túy nên T lấy ra 1 ít ma túy trong gói nylon vừa mua để sử dụng, còn lại đưa cho C giữ rồi C và Trang ra về. Đến 02 giờ 00 phút ngày 29/6/2020, C thuê phòng 205 khách sạn X để sử dụng ma túy. Đến 08 giờ 30 phút cùng ngày thì bị công an Phường 3, quận Tân Bình kiểm tra bắt quả tang như nêu trên.

Căn cứ lời khai của C, Công an Phường 7, quận Tân Bình mời T làm việc, T thừa nhận hành vi góp tiền mua 01 gói nylon viền đỏ chứa ma túy đá vào ngày 28/6/2020, phù hợp với lời khai của C.

Đối với 04 gói ma túy còn lại: C khai góp tiền với T mua của một người bán dạo (không rõ lai lịch) ở cầu B, quận M vào ngày 25/6/2020 để sử dụng, sau đó cả hai mang về chia đôi, phần của T thì T tự giữ, phần của C thì C chia thành 04 gói nhỏ này. Tuy nhiên, T không thừa nhận có góp tiền mua ma túy chung với C lần này. T xác định đây là lần đầu góp tiền mua ma túy chung với C để sử dụng. Do chỉ có lời khai của C, không có chứng cứ gì thêm nên không đủ cơ sở xác định T đồng phạm với C về hành vi cất giấu 04 gói ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 1,4864 gam nêu trên.

Đối với đối tượng bán ma túy tên H và người bán ma túy dạo ở cầu B, do không rõ lai lịch nên không có cơ sở điều tra làm rõ.

Đối với người bạn của C tên T1, do không xác định được lai lịch, T và C đều khai không nói cho T1 biết việc mua ma túy để sử dụng nên không có cơ sở điều tra làm rõ.

Đối với chủ khách sạn X là bà Đặng Thị T, không biết C thuê phòng khách sạn để sử dụng ma túy nên không có cơ sở điều tra xử lý về hành vi “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Vật chứng vụ án:

- 02 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên phòng PC09, ghi số 1116 (là tang vật ma túy còn lại sau giám định).

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung S7 Edge màu xám, 01 thẻ ngân hàng mang tên Nguyễn Tiến C, 01 bóp da màu đen có chữ Polo thu giữ của C.

- 01 bình ga mini, 01 bình hút bằng nhựa có gắn ống hút và nỏ thủy tinh, 01 kéo nhỏ thu giữ của C. C khai dùng để sử dụng ma túy.

- 01 xe gắn máy hiệu Honda Vario biển số 60F3-170.47 thu giữ của Dương Đức T. Xe do T đứng tên sở hữu. T khai dùng để đi mua ma túy. Bà Võ Thị Ngọc X khai bà là người bỏ tiền ra mua xe gắn máy trên, do bận việc nên để T làm thủ tục đứng tên chứ không cho T, chỉ cho T sử dụng làm phương tiện đi lại khi cần thiết, bà không biết T dùng xe vào việc mua ma túy, phù hợp với lời khai của T. Bà X có yêu cầu nhận lại xe gắn máy trên.

- 01 bình hút bằng nhựa có gắn ống hút và nỏ thủy tinh, 10 bịch nylon có viền đỏ và 01 quẹt ga là dụng cụ T dùng để sử dụng ma túy.

Tại bản cáo trạng số 171/CT-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến C, Dương Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo C từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù, bị cáo T từ 02 năm đến 03 năm tù.

Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Tiến C, Dương Đức T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Tiến C và Dương Đức T đã có hành vi rủ nhau hùn tiền mua 2,0799 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng:

ngoài ra bị cáo Nguyễn Tiến C còn cất giấu 1,4864 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thuộc trường hợp “Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó không chỉ là hành vi xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, tạo điều kiện làm gia tăng tệ nạn nghiện hút ma túy trong thanh thiếu niên và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Các bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức và biết rõ tác hại của việc cất giấu chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị rất nghiêm khắc, nhưng chỉ vì muốn thỏa mãn cơn nghiện mà các bị cáo đã bất chấp tất cả, xem thường pháp luật và lợi ích của cộng đồng. Trong vụ án này, bị cáo C đã bị xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không lấy làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù nhằm mục đích cải tạo, giáo dục, tạo điều kiện cho các bị cáo cai nghiện một cách triệt để, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về vật chứng vụ án:

- 02 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên phòng PC09, ghi số 1116 (là tang vật ma túy còn lại sau giám định) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung S7 Edge màu xám, 01 thẻ ngân hàng mang tên Nguyễn Tiến C thu giữ của bị cáo C, Hội đồng xét xử xét thấy đây là giấy tờ và tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

- 01 bóp da màu đen có chữ Polo, 01 bình ga mini, 01 bình hút bằng nhựa có gắn ống hút và nỏ thủy tinh, 01 kéo nhỏ thu giữ của bị cáo C; 01 bình hút bằng nhựa có gắn ống hút và nỏ thủy tinh, 10 bịch nylon có viền đỏ và 01 quẹt ga thu giữ của bị cáo T, Hội đồng xét xử xét thấy đây là những vật không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 xe gắn máy hiệu Honda Vario biển số 60F3-170.47 thu giữ của bị cáo T, xét thấy tuy bị cáo và bà Võ Thị Ngọc X đều khai nhận bà X là người bỏ tiền ra mua xe, bà X chỉ nhờ T đứng tên chủ sở hữu, không cho T được T quyền sở hữu xe, chỉ cho T sử dụng xe khi cần thiết nhưng ngoài lời khai này thì không có gì chứng minh bà X là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe trên, bị cáo lại chính là người trực tiếp đứng tên đăng ký xe và dùng xe vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu nhận lại xe của bà X, quyết định tịch thu nộp ngân sách Nhà nước chiếc xe trên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Căn cứ khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự:

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến C, Dương Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

X ử phạt bị cáo : Nguyễn Tiến C 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2020.

X ử phạt bị cáo : Dương Đức T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2020.

[2] Tịch thu và tiêu hủy: 02 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của giám định viên phòng PC09, ghi số 1116 (là tang vật ma túy còn lại sau giám định), 01 bóp da màu đen có chữ Polo, 01 bình ga mini, 02 bình hút bằng nhựa có gắn ống hút và nỏ thủy tinh, 01 kéo kim loại nhỏ, 10 bịch nylon có viền đỏ và 01 quẹt gas.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tiến C: 01 điện thoại di động hiệu Samsung S7 Edge màu xám, bị bể nứt hai mặt và 01 thẻ ngân hàng mang tên Nguyễn Tiến C.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 xe gắn máy hiệu Honda Vario 150 màu bạc đen, biển số 60F3-170.47, số máy: KF41E1346675, số khung: MH1KF4115JK345708.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 173/PNK ngày 24/11/2020 của Công an quận Tân Bình).

[3] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

375
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2021/HS-ST ngày 22/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;