Bản án 18/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 499/2020/HSST ngày 18 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2021/QĐXXST - HS ngày 31/12/2020 đối với các bị cáo:

1.Thạch D, sinh năm 1989 tại tỉnh Sóc Trăng; thường trú: Ấp C xã V, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Khơ me; tôn giáo: Phật; giới tính: Nam; con ông Thạch D1, sinh năm 1954 và con bà Thạch Thị Sa P, sinh năm 1956 ; bị cáo có vợ tên Sơn Thị Bích K, và có 02 con sinh năm 2015 và năm 2019; tiền sự, tiền án: Không có. Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 15/8/2020, có mặt.

2.Trương Công N, sinh năm 1989 tại tỉnh Quảng Bình; thường trú: Thôn Tân Ấp, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Bình; tạm trú: 659B tổ 9 khu phố B, phường H, Thành phố A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Trương Công T, sinh năm 1962 và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1964; bị cáo có 4 anh em, bị cáo là thứ 2; tiền sự, tiền án: Không có. Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 15/8/2020, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Kim N1, sinh năm 1978; thường trú: Tổ 15 ấp 3, xã A thị xã U, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Bảo T, sinh năm 1999, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 14/8/2020, bị cáo Trương Công N, ngồi ăn với người bạn tên Tú và bạn của Tú ( không rõ nhân thân), lúc này người bạn của Tú hỏi N “có biết chỗ nào bán ma túy” đồng thời nhờ N đi mua dùm ma túy. Sau đó Tú và nhóm bạn gom được 500.000 đồng đưa cho N đi mua ma túy, lúc này Tú điện thoại cho người tên Tú (không rõ nhân thân) hỏi mua 500.000 đồng ma túy, Tú nói N “điện thoại số 097.110.5030 gặp Thạch D để mua ma túy”. N điện thoại cho D hỏi mua 500.000 đồng ma túy và được hẹn giao ma túy tại khu vực ngã tư 550. Khi N gặp D, D nói N “lên xe mô tô biển số 61H4 – 6090 ngồi” khi D chở N lưu thông trên đường ĐT743 về hướng An Phú, trên đường đi D lấy gói ma túy đưa cho N, N cầm gói ma túy bỏ vào túi áo khoác bên trái đang mặc và lấy 500.000 đồng đưa cho D. D điều khiển xe mô tô chở N đến đoạn đường đối diện cổng công ty giày Thái Bình địa chỉ khu phố Chiêu Liêu, phường Tân Đông Hiệp, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương thì dừng xe để N xuống xe. Thời điểm này lực lượng tuần tra Công an phường Tân Đông Hiệp, Thành phố Dĩ An kiểm tra hành chính phát hiện trong túi áo khoác của N có 01 gói nilon chứa chất tinh thể màu trắng, N khai nhận là ma túy mua của Thạch D nên tất cả bị lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang vào lúc 0 giờ 15 phút ngày 15/8/2020.

Vật chứng thu giữ : 01 gói nilon có chứa chất tinh thể màu trắng, số tiền 500.000 đồng; 01 điện thoại di động Oppo A 31 màu đen có số sim 096.157.9291; 01 điện thoại Nokia màu xanh có số sim 097.1135.030 và 01 xe mô tô biển số 61H4 – 6090.

Kết luận giám định số 519 /MT-PC09 ngày 21/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng, trong một bì thư được niêm phong gửi đến giám định là ma túy có khối lượng 0,3922 gam loại Methamphetamine.

Về xử lý vật chứng: Xe mô tô biển số 61H4 – 6090 bị cáo Thạch D mượn của chị Nguyễn Thị Kim N1, chị N1 không biết D sử dụng phạm tội nên. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Dĩ An đã trả lại cho chị N1.

Đối với tên Tú, bạn của Tú (chưa rõ nhân thân). Cơ quan cảnh sát điều tra công an Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.

Cáo trạng số 529/CT - VKS ngày 18/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Thạch D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Bị cáo Trương Công N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

+ Khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Thạch D từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

+ Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trương Công N từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định, sim số điện thoại. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động của bị cáo D, N.

Bị cáo D, N không tranh luận, không bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án các bị cáo nói lời sau cùng: các bị cáo xin được giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo Thạch D, Trương Công N: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 15/8/2020, kết luận giám định về ma túy, lời khai bị cáo D và N thể hiện đêm ngày 14/8/2020 bị cáo D bán cho bị cáo N 01 liều ma túy loại Methamphetamine trị giá 500.000 đồng, D đưa N ma túy, N để ma túy trong túi áo khoác sau đó cả hai bị bắt giữ. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ Như vậy, hành vi trên của bị cáo D đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy ”, được quy định khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bị cáo N đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 529 ngày 18/11/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An truy tố đối với các bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội.

[2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo D, N không có

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo D, N quá trình điều tra và tại phiên tòa thể hiện thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về nhân thân: Bị cáo D, N có nhân thân tốt thể hiện việc không có tiền án, tiền sự, các bị cáo nhất thời phạm tội.

[5] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo D, N phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 07 năm tù đối với bị cáo D, 05 năm tù đối với bị cáo N. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Hiện nay hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy, sử dụng trái phép chất ma túy” diễn ra nhiều phức tạp, mặc dù Đảng, Nhà nước và toàn xã hội ra sức tuyên truyền cho mọi người hiểu biết về tác hại của ma túy và ra sức phòng chống nhưng số người nghiện ma túy ngày một gia tăng. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[6] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy, sim điện thoại của bị cáo D, N cần tịch thu tiêu hủy, đối với điện thoại di động của các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng, mức hình phạt bị cáo D, N phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9] Án phí sơ thẩm: Bị cáo D, N phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Thạch D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Bị cáo Trương Công N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

1. 1 Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Thạch D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

1. 2 Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Công N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Thời hạn tù đối với bị cáo D, N tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 15/8/2020.

2. Các biện pháp tư pháp Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư có chứa ma túy có khối lượng là 0,3013 loại Methamphetamine, mẫu vật hoàn lại sau giám định; sim số 0961.579.291 và 0971.105.030

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) gồm 02 tờ tiền, mỗi tờ mệnh giá 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng). 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu Oppo A 31.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/11/2020 tại Chi cục Thi hành án Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14.

Bị cáo Thạch D, Trương Công N mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;