TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 16 tháng 7 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2021/TLST-HS ngày 14/5/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐXXST-HS 28/6/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2021/HSST-QĐ ngày 12/7/2021 đốivới bị cáo:
1. Nguyễn Văn L, tên gọi khác: Không; sinh ngày 01/5/1984 tại thành phố B, tỉnh Hòa Bỉnh; Nơi cư trú: Tổ 5, phường A, thành phố B, tỉnh Hòa Bình; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Nguyễn Tiến S và bà Nguyễn Thị T; Vợ: Nguyễn Thị T; Con: có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại hiện đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Hòa Bình (Có mặt tại phiên tòa).
2. Bị hại:
2.1. Anh Bùi Mạnh Q, sinh ngày 16/9/2002.
Nơi cư trú: xóm R, xã P, huyện Y, tỉnh Hòa Bình (Đã chết).
Những người đại diện hợp pháp của người bị hại: Ông Bùi Văn T, sinh năm 1972 (bố đẻ); Bà Bùi Thị C, sinh năm 1976 (mẹ đẻ); cùng trú tại: xóm R, xã P, huyện Y, tỉnh Hòa Bình ủy quyền cho bà Bùi Thị C làm đại diện hợp pháp tham gia tố tụng trong vụ án theo Biên bản họp gia đình ngày 19/12/2020 - Có mặt tại phiên tòa.
2.2. Anh Bùi Đức L, sinh ngày 04/01/2003 – Vắng mặt Trú tại: xóm X, xã P, huyện Y, tỉnh Hòa Bình.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Đoàn Quốc T, sinh năm 1968 - Vắng mặt Nơi cư trú: Tổ 9, phường C, thành phố B, tỉnh Hòa Bình
3.2. Bà Bùi Thị H, sinh năm 1976 - Có mặt Nơi cư trú: xóm X, xã P, huyện Y, tỉnh Hòa Bình.
4. Người làm chứng:
4.1. Anh Ninh Xuân H, sinh năm 1989 – Vắng mặt Nơi cư trú: xóm T, xã P, huyện Y, tỉnh Hòa Bình
4.2. Anh Bùi Văn H, sinh năm 2002 - Vắng mặt Nơi cư trú: xóm R, xã P, huyện Y, tỉnh Hòa Bình.
4.3. Chị Bùi Thị T, sinh năm 1987 – Vắng mặt Nơi cư trú: xóm T, xã P, huyện Y, tỉnh Hòa Bình
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 10/12/2020 Nguyễn Văn L có giấy phép lái xe hạng FC điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 28C-057.26 kéo theo rơ mooc biển kiểm soát 28R-002.36 của Công ty trách nhiệm hữu hạn M đến tỉnh Thanh Hóa để chở hàng. Đến khoảng 18 giờ 04 phút cùng ngày L điều khiển xe ô tô đi đến Km 40+700 đường quốc lộ 12B thuộc địa phận xóm H, xã P, huyện Y, tỉnh Hòa Bình, ô tô đi với tốc độ khoảng 46Km/h chuyển động hướng Y đi Nho Quan, đi ở phần đường bên phải theo chiều đi của mình. Đây là đoạn đường thẳng và có biển cảnh báo nguy hiểm, tuy nhiên do không chú ý quan sát nên L không nhìn thấy biển cảnh báo nguy hiểm, L giữ nguyên tốc độ của xe ô tô, quan sát thấy phía trước cách khoảng 50 mét có 01 xe mô tô biển kiểm soát 28FZ-184.97 do Bùi Mạnh Q sinh năm 2002 trú tại xóm R, xã P, huyện Y, tỉnh Hòa Bình điều khiển, chở sau là Bùi Đức L sinh năm 2003, trú tại xóm X, xã P, huyện Y, tỉnh Hòa Bình chuyển động hướng Nho Quan đi Y với tốc độ nhanh tại phần đường bên phải theo hướng Y đi Nho Quan.
L giữ nguyên tốc độ của xe ô tô điều khiển sang phần đường bên trái theo hướng Y đi Nho Quan để tránh chiếc xe mô tô do Bùi Mạnh Q điều khiển đi ngược chiều đến, nhưng Q lại điều khiển xe mô tô đi về phần đường bên phải theo hướng chuyển động (phần đường bên trái theo chiều chuyển động của xe ô tô). Thấy vậy, L đạp phanh, bấm còi tuy nhiên do đang đi với tốc độ nhanh nên xe ô tô do L điều khiển đã đâm va vào xe mô tô do Q điều khiển gây tai nạn. Hậu quả: Bùi Mạnh Q bị chết trên đường đi cấp cứu, Bùi Đức L bị thương tích, hai phương tiện bị hư hỏng.
Sau khi tai nạn xảy ra, Kiểm tra đo nồng độ cồn trong hơi thở và xét nghiệm nước tiểu để tìm chất ma túy đối với Nguyễn Văn L, kết quả: trong hơi thở của L không có nồng độ cồn và cũng không sử dụng ma túy. Khám nghiệm tử thi Bùi Mạnh Q và thu mẫu máu để giám định nồng độ cồn, tìm chất ma túy để phục vụ công tác xác minh làm rõ vụ việc, kết quả: trong mẫu máu của Q có nồng độ Ethanol (cồn) là 244,0mg/100ml máu, không tìm thấy chất ma túy trong máu của Q.
* Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định:
Hiện trường xảy ra vụ tai nạn giao thông tại Km 40+700 đường quốc lộ 12B thuộc địa phận xóm Hạ, xã P, huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Đoạn đường thẳng, mặt đường phẳng, được rải nhựa áp phan, đoạn đường không có vạch kẻ sơn, đo tại vị trí điểm chạm mặt đường có chiều rộng là 06m 60cm, bên phải đường theo hướng Nho Quan đi Y có phần đất lưu không rộng 02m10cm. Bên phải phần đất lưu không, tại khu vực ruộng bỏ hoang, mặt ruộng thấp hơn so với mặt đường là 57cm. Tại phần đất lưu không bên phải đường theo hướng Y đi Nho Quan cách điểm chạm 31m 40cm về hướng Y có 01 biển báo nguy hiểm “khu vực gần trường học, thường có trẻ em đi qua đường”.
+ Xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 28C-057.26 kéo theo rơ mooc biển kiểm soát 28R-002.36 do Nguyễn Văn L điều khiển trước khi xảy ra tai nạn chuyển động hướng Y đi Nho Quan, sau khi xảy ra tai nạn xe ô tô dừng đỗ tại giữa đường, đầu xe qua về hướng Nho Quan, đuôi xe sơ mi rơ mooc quay về hướng Y. Phần đuôi xe sơ mi rơ mooc nằm ở phần đường bên phải theo hướng Y đi Nho Quan. Đo từ trục bánh trước bên trái xe ô tô đầu kéo vào mép đường chuẩn là 01m 60cm, từ trục bánh sau bên trái xe ô tô đầu kéo vào mép đường chuẩn là 01m 73cm, đo từ trục bánh trước bên trái xe sơ mi rơ mooc vào mép đường chuẩn là 02m 23cm, đo từ trục bánh sau bên trái xe sơ mi rơ mooc vào mép đường chuẩn là 02m 45cm.
+ Xe mô tô biển kiểm soát 28FZ-184.97 do Bùi Mạnh Q điều khiển chở sau là Bùi Đức L, trước khi xảy ra tai nạn chuyển động hướng Nho Quan đi Y, sau khi xảy ra tai nạn xe mô tô đổ nghiêng bên phải trên ruộng bỏ hoang bên phải đưởng hướng Nho Quan đi Y, đầu xe quay về hướng Nho Quan. Đo từ tâm bánh trước xe mô tô vào mép đường chuẩn là 04m 28cm, đo từ tâm bánh sau xe mô tô vào mép đường chuẩn là 03m 85cm. Đo từ tâm xe mô tô đến tâm bánh trước bên trái xe ô tô đầu kéo là 24m 15cm.
+ Lấy cột biển báo hiệu W225 nằm tại phần đất lưu không bên phải đường hướng Y đi Nho Quan làm điểm mốc; lấy mép đường bên phải theo hướng Nho Quan đi Y là mép đường chuẩn.
+ Điểm chạm giữa hai phương tiện nằm trên khoảng không, chiếu đứng vuông góc xuống mặt đường ký hiệu A nằm tại phần đường bên phải theo hướng Nho Quan đi Y. Đo từ điểm chạm vào mép đường chuẩn là 01m 71cm, đo đến điểm đầu vết số (1) là 16m 25cm, đo đến điểm đầu vết số (2) là 11m 60cm, đo đến điểm đầu vết số (3) là 03m 36cm, đo đến điểm đầu vết (4) là 08m 35cm, đo đến tâm vết số (5) là 07m 85cm, đo đến tâm xe mô tô biển kiêm soát 28FZ-18497 là 18m, đo đến tâm bánh trước bên trái xe ô tô đầu kéo BKS 28C-057.26 là 06 m 28cm, đo đến tâm bánh trước bên trái xe sơ mi rơ mooc BKS 28R-002.36 là 03m 30cm.
Trên hiện trường còn ghi nhận các vết mài trượt lốp màu đen ký hiệu số 1, 2;
vết cà trượt ký hiệu số 3; vết cầy lốc đất ký hiệu số 4; vùng mảnh nhựa vỡ ký hiệu số 5. Xác định Nguyễn Văn L điều khiển xe ô tô đi không đúng phần đường quy định, đâm và vào xe mô tô BKS 28FZ-184.97 đi ngược chiều.
* Kết quả khám nghiệm phương tiện xác định:
Các dấu vết để lại trên xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 28C-057.26 kéo theo sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 28R-002.36 và xe mô tô biển kiểm soát 28FZ-184.97 phù hợp với các dấu vết để lại hiện trường, trên người bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án.
* Kết quả khám nghiệm tử thi xác định:
Tại bản kết luận giám định pháp y số: 124/GĐPY-CAT-PC09 ngày 15/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình, kết luận: Nguyên nhân chết của nạn nhân Bùi Mạnh Q chết do gãy đốt sống cổ.
* Kết quả định giá tài sản:
Tại bản kết luận định giá tài sản số 03/KL-HĐĐGTS ngày 26/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Tổng giá trị thiệt hại xe ô tô đầu kéo BKS 28C-057.26 kéo theo sau là sơ mi rơ mooc biểm kiểm soát 28R-002.36 là 4.700.000đ (Bốn triệu bảy trăm nghìn đồng); Tổng giá trị thiệt hại xe mô tô biển kiểm soát 28FZ-184.97 là 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng).
*Vật chứng thu giữ trong vụ án:
- 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 28C-057.26; 01rơ mooc biển kiểm soát 28R- 002.36 và các giấy tờ khác liên quan đến xe ô tô và sơ mi rơ mooc; 01 giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 170117001565 mang tên Nguyễn Văn L;01 thiết bị giám sát hành trình bằng kim loại ký hiệu VTR-05; 01 hợp đồng thuê lái xe; 01 xe mô tô biển kiểm soát 28FZ-184.97.
Quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã xử lý trả lại: 01 xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 28C-057.26; 01sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 28R-002.36; 01 thiết bị giám sát hành trình bằng kim loại ký hiệu VTR-05và các giấy tờ khác liên quan đến xe ô tô và sơ mi rơ mooc trên cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Đoàn Quốc T; Trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 28FZ-184.97 cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Bùi Thị H; Tiếp tục thu giữ 01 giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 170117001565 mang tên Nguyễn Văn L và các tài liệu khác vào trong hồ sơ vụ án.
*Trách nhiệm dân sự:
Trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyễn Văn L đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả thiệt hại về tính mạng và tài sản cho đại diện gia đình các bị hại tổng số tiền là 115.000.000 đồng. Đại diện gia đình bị hại, bị hại đã nhận tiền bồi thường và không có yêu cầu đề nghị gì thêm.
Đối với các thiệt hại về vật chất do tai nạn gây ra đối với xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 28C-057.26 kéo theo sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 28R-002.36 Công ty TNHH M không yêu cầu bị cáo L phải bồi thường.
Tại bản cáo trạng số: 15/CT-VKS-YT ngày 13/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Hòa Bình đã truy tố Nguyễn Văn L về tội“Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y thực hành công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L, phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 18 tháng đến 24 tháng nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách.
Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điều 46 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị trả lại 01 giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 170117001565 mang tên Nguyễn Văn L do Sở giao thông vận tải tỉnh Hòa Bình cấp lại ngày 09/6/2020 cho bị cáo.
Trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và đại diện hợp pháp cho nạn nhân Bùi Mạnh Q và bị hại Bùi Đức L.
Bị cáo nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố, không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Bị cáo nói lời sau cùng đã nhận thức được sai lầm do hành vi phạm tội của mình gây ra mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm trở thành người có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Nội dung vụ án: Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 10/12/2020 Nguyễn Văn L có giấy phép lái xe hạng FC điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 28C-057.26 kéo theo sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 28R-002.36 của Công ty trách nhiệm hữu hạn M đến tỉnh Thanh Hóa để chở hàng. Đến khoảng 18 giờ 04 phút cùng ngày L điều khiển xe ô tô đi đến Km 40+700 đường quốc lộ 12B thuộc địa phận xóm Hạ, xã P, huyện Y, tỉnh Hòa Bình, quan sát thấy phía trước cách khoảng 50 mét có 01 xe mô tô biển kiểm soát 28FZ-184.97 do Bùi Mạnh Q điều khiển, chở sau là Bùi Đức L chuyển động hướng Nho Quan - Y đi với tốc độ nhanh tại phần đường bên phải. L giữ nguyên tốc độ của xe ô tô điều khiển sang phần đường bên trái theo hướng Y đi Nho Quan để tránh xe mô tô do Bùi Mạnh Q điều khiển đi ngược chiều đến, nhưng Q lại điều khiển xe mô tô đi về phần đường bên phải theo hướng chuyển động. L đạp phanh, bấm còi tuy nhiên do đang đi với tốc độ nhanh nên xe ô tô do L điều khiển đã đâm va vào xe mô tô do Q điều khiển gây tai nạn. Hậu quả: Bùi Mạnh Q bị chết trên đường đi cấp cứu, Bùi Đức L bị thương tích, hai phương tiện bị hư hỏng. Các dấu vết A- điểm chạm giữa hai phương tiện xác định Nguyễn Văn L điều khiển xe ô tô đi không đúng phần đường quy định, đâm và vào xe mô tô BKS 28FZ-184.97 đi ngược chiều. Hành vi của bị cáo L đã vi phạm các quy định tại khoản 3 Điều 4, khoản 1 và khoản 8 Điều 5 Thông tư số 31/2019/TT – BGTVT ngày 29/8/2019 quy định về tốc độ khoảng cách cảu xe cơ giới, xe máy chuyên dùng khi tham gia giao thông đường bộ, vi phạm khoản 1 Điều 17 Luật giao thông đường bộ quy định tránh xe đi ngược chiều.
Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật.
Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi vô ý trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại đến tính mạng sức khỏe, tài sản của người khác. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để răn đe, đồng thời phòng ngừa chung. Tuy nhiên tai nạn xảy ra cũng có một phần lỗi của người bị hại tham gia giao thông không chú ý quan sát, điều khiển phương tiện giao thông trong tình trạng có nồng độ Ethanol (cồn) là 244,0mg/100ml trong máu, trước khi xảy ra tai nạn đã điều khiển xe mô tô đi trái phần đường.
Bị cáo L không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại, đại diện gia đình bị hại đã nhận bồi thường và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo, bị cáo là người dân tộc thiểu số. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên xét thấy không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ cải tạo bị cáo, không gây nguy hiểm cho xã hội.
[3] Hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Văn L hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có công việc ổn định, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 46 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Trả lại 01 giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 170117001565 mang tên Nguyễn Văn L do Sở giao thông vận tải tỉnh Hòa Bình cấp lại ngày 09/6/2020 cho bị cáo Nguyễn Văn L.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi tai nạn xảy ra bị cáo Nguyễn Văn L đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả thiệt hại về tính mạng và tài sản cho đại diện gia đình bị hại Q số tiền là 100.000.000 đồng, bị hại L số tiền 15.000.000 đồng. Đại diện gia đình các bị hại đã nhận tiền bồi thường, tại phiên tòa không yêu cầu đề nghị gì thêm về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Đối với các thiệt hại về vật chất do tai nạn gây ra đối xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 28C-057.26 kéo theo sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 28R-002.36 Công ty TNHH M không yêu cầu bị cáo phải bồi thường hay hoàn trả nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Đối với thiệt hại về vật chất do tai nạn gây ra đối xe mô tô BKS 28FZ-184.97 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị H không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L, phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
2. Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 18 (Mười tám) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 36 (Ba sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Văn L cho Ủy ban nhân dân phường B, thành phố C, tỉnh Hòa Bình giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án Hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 46 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn L 01 giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 170117001565 mang tên Nguyễn Văn L do Sở giao thông vận tải tỉnh Hòa Bình cấp lại ngày 09/6/2020.
4.Án phí: Căn cứ khoản 2, điều 135, khoản 2, điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016. Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo; đại diện hợp pháp của bị hại có mặt có quyền kháng cáo; Bị hại, người có quyền L nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết./.
Bản án 18/2021/HS-ST ngày 16/07/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 18/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thủy - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về