Bản án 18/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 15/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2021 đối với:

Bị cáo Phùng Văn Đ (tên gọi khác: Không); sinh ngày 07 tháng 4 năm 1998 tại huyện B, tỉnh Bắc Kạn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn 3B, xã S, huyện B, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn Đ và bà Hoàng Thị Th; vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không; hiện đang bị tạm giam trong một vụ án khác - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 30/01/2021, Công an huyện B phối hợp với Công an xã S, huyện B đang tiến hành tuần tra kiểm soát an ninh trật tự tại khu vực đường liên thôn thuộc thôn 3B, xã S, huyện B thì phát hiện Phùng Văn Đ (sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn 3B, xã S, huyện B) có nhiều biểu hiện đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Kiểm tra trên người Đ, tổ công tác phát hiện tại túi áo phía trước bên trái Đ đang mặc có 01 (một) gói nhỏ được gói bằng giấy có nhiều màu sắc và chữ viết, kiểu giấy vé xổ số, bên trong có chứa chất bột màu trắng. Tổ công tác tiến hành thử phản ứng nhanh chất ma túy đối với chất bột trên cho phản ứng đặc trưng của chất ma túy Heroine. Sau khi thử phản ứng, gói nhỏ trên được gói lại và niêm phong vào phong bì ký hiệu “Đ”. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B tiến hành cân xác định khối lượng chất bột niêm phong trong phong bì ký hiệu “Đ” có khối lượng là 0,399g (không phẩy ba chín chín gam). Sau khi cân, toàn bộ số chất bột màu trắng được gói niêm phong phong bì ký hiệu “GĐ” gửi đi giám định.

Tại Kết luận giám định số: 53/KTHS-MT ngày 05/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng có trong phong bì ký hiệu “GĐ” gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,399g (không phẩy ba chín chín gam).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Phùng Văn Đ khai nhận: Bản thân Đ nghiện ma túy từ năm 2018. Khoảng 14 giờ ngày 30/01/2021, Đằng đi bộ từ nhà sang xã N, huyện B để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi đi đến đỉnh dốc thuộc thôn N, xã S, Đ gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi không biết họ tên, địa chỉ. Đ hỏi người đàn ông này “còn không để cho em một ít” ý là còn ma túy không bán cho Đ một ít. Người đàn ông đáp “còn, lấy bao nhiêu?”. Đ nói “lấy 300.000 đồng” rồi đưa 300.000 đồng cho người đàn ông. Người đàn ông đưa cho Đ một gói ma túy được gói bằng giấy nhiều màu sắc và chữ viết. Đ cất gói ma túy vào túi áo đằng trước bên trái đang mặc rồi đi về nhà, nhưng đi được một đoạn thì bị Công an huyện B bắt quả tang.

Tại bản cáo trạng số 14/CT-VKSBT ngày 11/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Phùng Văn Đ về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

+ Tuyên bố bị cáo Phùng Văn Đ phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Xử phạt bị cáo Phùng Văn Đ từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

- Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Xét thấy bị cáo thuộc diện hộ nghèo, không có tài sản riêng nên không đề nghị áp dụng.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ký hiệu “T53” bên trong có 0,340g (không phẩy ba bốn không gam) ma túy loại Heroine cùng phong bì bao gói cũ; 01 phong bì niêm phong ký hiệu “Đ1” bên trong có phong bì niêm phong ban đầu và 01 mảnh giấy có nhiều màu sắc và chữ viết.

- Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14: Miễn án phí cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như cáo trạng đã truy tố, không có khiếu nại về hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bản thân, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ khẳng định: Do sử dụng chất ma túy nên hồi 14 giờ 40 phút ngày 30/01/2021, tại khu đỉnh dốc thuộc thôn 3B, xã S, huyện B, Phùng Văn Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 (một) gói nhỏ ma túy loại Heroine có khối lượng 0,399g (không phẩy ba chín chín gam) để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo được thực hiện khi bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý Nhà nước về chất gây nghiện, là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn ma túy tại địa phương. Do đó, bản cáo trạng số: 14/CT-VKSBT ngày 11/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố Phùng Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Điều 249 của Bộ luật Hình sự có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a,…………………………………………………………………………………… c, Heroine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……………………………………………………………………………………….

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3]. Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Trước khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo có nhân thân tốt. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra cho xã hội, xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy cần buộc bị cáo đi cải tạo tại cơ sở giam giữ mới đảm bảo tính giáo dục cho bị cáo, tính răn đe và phòng chống tội phạm trong xã hội.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo, không có tài sản riêng nên không có khả năng thi hành. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng.

[4]. Đối với hành vi của người đàn ông khoảng 30 tuổi đã bán ma túy cho bị cáo tại khu vực đỉnh dốc N, xã S vào ngày 30/01/2021 nhưng do Đ không biết họ tên, địa chỉ của người đàn ông này nên không có căn cứ xác minh.

[5]. Vật chứng: 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu “T53” do cơ quan giám định hoàn trả, bên trong có 0,340g (không phẩy ba bốn không gam) ma túy loại Heroine cùng phong bì bao gói cũ; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu “Đ1” bên trong có phong bì niêm phong ban đầu và 01 (một) mảnh giấy có nhiều màu sắc và chữ viết. Số vật chứng trên thuộc loại cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6]. Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử miễn án phí cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phùng Văn Đ phạm: “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phùng Văn Đ 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

- Vật chứng, biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu “T53” bên trong có 0,340g (không phẩy ba bốn không gam) ma túy loại Heroine cùng phong bì, bao gói cũ; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu “Đ1” bên trong có phong bì niêm phong ban đầu và 01 (một) mảnh giấy có nhiều màu sắc và chữ viết.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 12/5/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B).

- Về án phí: Căn cứ các điều 12, 14, 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14: Phùng Văn Đ được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;