TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 03 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 177/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa ra xét xử số 12/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn Q, sinh năm 1989; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn 5, xã Quảng Khê, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 02/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Nguyễn Văn Q, sinh năm 1965; họ tên mẹ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1964; gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất; họ tên vợ: Lê Thị C, sinh năm 1989 (đã ly hôn); tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ từ ngày 28/7/2020 đến ngày 07/8/2020 hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 103 ngày 23/10/2020. Bị cáo hiện đang bị bắt về hành vi phạm tội khác, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 22 giờ 10 phút ngày 28/7/2020 tổ công tác Y20/141 Công an Hà Nội phối hợp với Công an xã Yên Thường làm nhiệm vụ tại khu vực trạm kiểm dịch thuộc Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội, phát hiện Nguyễn Văn Q điều khiển xe máy hiệu ZALUKA, không biển soát, có biểu hiện liên quan đến ma tuý. Qua kiểm tra, thu giữ của Nguyễn Văn Q 02 gói ma tuý (01 gói giấy màu trắng, 01 gói giấy bạc màu vàng), cất giấu trong túi quần phía trước bên trái của Q, Q khai nhận là ma tuý Heroine, Q đi mua về để sử dụng. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn Q.
Vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn Q: 01 gói nhỏ giấy màu trắng bên trong có chất bột màu trắng; 01 gói nhỏ giấy màu vàng bên trong có chất bột màu trắng và 01 chiếc xe máy hiệu ZALUKA, không biển soát.
Tại Kết luận giám định số 7046/KLGĐ-PC09 ngày 04/08/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói nhỏ giấy màu trắng có khối lượng: 0,065 gam là Heroine. Chất bột màu trắng bên trong 01 gói nhỏ giấy màu vàng có khối lượng: 0,139 gam là Heroine. Tổng khối lượng là: 0,204 gam là Heroine.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Q khai nhận: Khoảng 21 giờ 00 ngày 28/7/2020 Q mượn xe máy của anh Vũ Văn Tuân, sinh năm 1990, HKTT ở Quảng Khê, Quảng Xương, Thanh Hoá, ở cùng phòng trọ với Q, ở Ngọc Lâm, Long Biên, Hà Nội. Sau đó Q đi đến Từ Sơn, Bắc Ninh tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến Từ Sơn, Bắc Ninh, Q điều khiển xe đi vào 01 ngõ nhỏ, khi đi đến ngôi nhà có cửa sắt đóng kín, qua ô cửa, Q mua 02 gói ma tuý của một người không quen biết với giá 300.000 đồng, sau khi mua được ma tuý, Q cất giấu vào túi quần phía trước bên trái và điều khiển xe máy đi về. Khi đến khu vực Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội thì bị cơ quan Công an kiểm tra, phát hiện bắt giữ cùng vật chứng.
Đối với đối tượng bán ma tuý cho Q, không rõ nhân thân nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra xác minh làm rõ.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu ZALUKA, không biển soát, số máy 001955, số khung 001955, đã qua sử dụng: Q khai mượn xe của anh Vũ Văn Tuân, sinh năm 1990; hộ khẩu thường trú: Quảng Khê, Quảng Xương, Thanh Hóa (là bạn bè cùng Q với Q) để đi chơi và anh Tuân không biết là Q dùng xe để đi mua ma túy. Qua làm việc, anh Tuân khai: Khoảng tháng 6/2019, anh mua chiếc xe trên tại chợ xe với giá là 2.000.000 đồng. Khi mua bán, xe có đăng ký, đeo biển kiểm soát 24P2-2689 và có viết giấy tờ mua bán xe; sử dụng một thời gian thì biển kiểm soát xe bị lỏng ốc, rơi mất. Quá trình kiểm tra, xác minh đăng ký xe mang tên chủ sở hữu anh Nguyễn Bá Lợi, sinh năm 1973; trú tại: Tổ 4, thị trấn Sa Pa, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Anh Lợi khai anh mua và đăng ký mới chiếc xe nói trên vào năm 2007; năm 2009, anh Lợi đã bán chiếc xe nói trên cho người không quen biết; hiện anh Lợi không giữ giấy tờ có liên quan và không có ý kiến đề nghị gì đối với chiếc xe nói trên. Ngày 28/07/2020, anh Tuân cho anh Q mượn xe nhưng không biết Q sử dụng xe để đi mua ma túy. Theo kết quả tra cứu xe máy vật chứng của Công an huyện Gia Lâm thì chiếc xe máy nói trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Ngày 10/10/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Gia Lâm ra quyết định xử lý vật chứng đã trả chiếc xe trên cho anh Vũ Văn Tuân.
Tại bản Cáo trạng số 176/CT-VKSGL ngày 21 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Văn Q từ 16 tháng đến 20 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 28/7/2020 đến ngày 07/8/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo.
Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:
Hồi 22 giờ 10 phút ngày 28/7/2020 tại khu vực trạm kiểm dịch thuộc Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội, bị can Nguyễn Văn Q đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroine, khối lượng 0,204 gam để sử dụng thì bị cơ quan Công an bắt quả tang cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:
[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Heroine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được đầy đủ về tác hại của ma tuý nhưng vẫn tham gia mua bán trái phép nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.
[3.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự, hiện đang bị Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội khởi tố bị can về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm về việc áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự do bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[3.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tại phiên toà là phù hợp.
[3.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.
Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[7] Về các nội dung khác:
Đối với đối tượng bán ma tuý cho Q, không rõ nhân thân nên cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra xác minh làm rõ nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với Vũ Văn Tuân, quá trình điều tra xác định Tuân không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Q, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 28/7/2020 đến ngày 07/8/2020.
2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu, tiêu huỷ ma túy loại Heroine có tổng khối lượng 0,176 gam (đã trừ trích mẫu để giám định 0,028 gam) trong 01 gói giấy mầu trắng và 01 gói giấy bạc mầu vàng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn Q, đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký xác nhận niêm phong của Giám định viên, cán bộ Công an xã Yên Thường và chữ ký của Nguyễn Văn Q, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 22/10/2020).
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.
Bị cáo Nguyễn Văn Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 18/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 18/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/02/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về