Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 30/03/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 500/2020/TLST-HNGĐ, ngày 01 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 175/2021/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Lư Thị Ngọc H, sinh năm 1992.

Địa chỉ: D/327, tổ 35, ấp L, xã P, huyện N, tỉnh Đ.

2.Bị đơn: Anh Trần Tấn Đ, sinh năm 1990 Địa chỉ: 52A tổ 2, ấp 3, xã T, huyện N, tỉnh Đ. (Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn chị Lư Thị Ngọc H trình bày: Chị và anh Trần Tấn Đ chung sống vào năm 2011, trên cơ sở tự nguyện, nhưng đến năm 2013 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã P (được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 02 ngày 11/01/2013).

Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Đ ham mê cờ bạc, không có trách nhiệm với gia đình, thường vô cớ đánh đập chị. Từ tháng 01/2020 vợ chồng sống ly thân nhau đến nay không hòa giải đoàn tụ lần nào. Nay chị cương quyết xin ly hôn với anh Đ vì vợ chồng không còn tình cảm.

- Con chung: có 02 cháu là Trần Lư Quốc Th-sinh ngày 21/01/2012 và Trần Xuân A-sinh ngày 17/12/2012. Nếu ly hôn, chị xin nuôi 02 con chung, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.

- Nợ chung: không có nên không yêu cầu giải quyết. Do bận đi làm nên chị xin vắng mặt khi xét xử vụ án.

* Bị đơn anh Trần Tấn Đ đã được tống đạt hợp lệ nhưng không đến Tòa án cung cấp chứng cứ nên không có bản khai.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục Tòa án thụ lý vụ án, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng, xác minh thu thập chứng cứ, thời hạn chuẩn bị xét xử, việc tuân theo pháp luật của đương sự và của hội đồng xét xử đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Chị Lư Thị Ngọc H và anh Trần Tấn Đ tự nguyện chung sống vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P. Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là cháu Trần Lư Quốc Th - sinh ngày 21/01/2012 và Trần Xuân A - sinh ngày 17/12/2012. Nguyên nhân mâu thuẫn là anh Đ ham mê cờ bạc, không có trách nhiệm với gia đình. Từ tháng 01/2020 cho đến nay, chị H và anh Đ sống ly thân nhau không hòa giải đoàn tụ. Nay chị H xin ly hôn anh Đ, xin nuôi 02 con chung, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp quy định pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 9,11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; các điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Lư Thị Ngọc H có yêu cầu vắng mặt, anh Trần Tấn Đ đã được tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt không rõ lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ các điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ án theo quy định.

[2].Về thẩm quyền giải quyết vụ án, quan hệ tranh chấp và tư cách đương sự: Chị Lư Thị Ngọc H yêu cầu giải quyết ly hôn với anh Trần Tấn Đ. Hiện nay anh Đ cư trú tại ấp 3, xã T, huyện N, tỉnh Đ nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện N có thẩm quyền giải quyết vụ án. Quan hệ pháp luật được xác định “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định nguyên đơn là chị Lư Thị Ngọc H, bị đơn là anh Trần Tấn Đ.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lư Thị Ngọc H và anh Trần Tấn Đ chung sống vào năm 2011, trên cơ sở thương yêu nhau tự nguyện, đến năm 2013 thì đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã P cấp giấy chứng nhận kết hôn số 02, quyển số 01/2013 ngày 11/01/2013. Căn cứ Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 hôn nhân trên được xem là hợp pháp. Nay chị H xin ly hôn anh Đ vì không còn tình cảm vợ chồng.

Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn thì thấy: Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn theo chị H khai là do anh Đ ham mê cờ bạc, không có trách nhiệm với gia đình, thường vô cớ đánh đập chị. Từ tháng 01/2020 cho đến nay, vợ chồng chị sống ly thân nhau không hòa giải đoàn tụ lần nào. Quá trình giải quyết vụ án, anh Đ đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng anh không đến Tòa án, từ đó thể hiện anh Đ không mong muốn hòa giải đoàn tụ với chị H.

Xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh Đ đã trầm trọng và kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần cho chị H được ly hôn anh Đ là phù hợp pháp luật.

[4]. Về con chung: Chị H khai có 02 con chung là Trần Lư Quốc Th - sinh ngày 21/01/2012 và Trần Xuân A - sinh ngày 17/12/2012. Ly hôn, chị H xin nuôi con, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng. Xét thấy, từ khi chị H và anh Đ sống ly thân nhau đến nay thì hai con chung được chị H trực tiếp chăm sóc. Ngoài ra trong quá trình giải quyết vụ án, anh Đ không có ý kiến gì về việc nuôi dưỡng con chung. Vì vậy để đảm bảo cho cháu Th, cháu A được phát triển ổn định về thể chất lẫn tinh thần, cần giao cho chị H nuôi dưỡng con chung, tạm thời anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp pháp luật.

[5]. Tài sản chung: chị H khai không có nên không xét.

[6]. Nợ chung: Đương sự khai không có nên không xét.

[7]. Về án phí: Chị H phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 147, 220, 227, 228, 264, 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, các điều 56, 58, 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lư Thị Ngọc H về việc “Ly hôn” đối với bị đơn anh Trần Tấn Đ.

1. Xử: Cho chị Lư Thị Ngọc H được ly hôn anh Trần Tấn Đ.

2. Về con chung: Xử giao cháu Trần Lư Quốc Th - sinh ngày 21/01/2012 và Trần Xuân A - sinh ngày 17/12/2012 cho chị H nuôi dưỡng. Tạm thời anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết đương sự được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Lư Thị Ngọc H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0000720 ngày 28/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Đồng Nai. Chị H đã nộp đủ án phí.

Chị Lư Thị Ngọc H, anh Trần Tấn Đ được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 30/03/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;