Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN 

Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 267/2020/TLST- HNGĐ ngày 01/10/2020 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 157/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30/12/2020 của Toà án nhân dân huyện Gò Công Tây, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn : NGUYỄN THỊ L – sinh năm 1975;

Địa chỉ: Tổ *, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng.

2. Bị đơn NGUYỄN HỒNG V – sinh năm 1977;

Địa chỉ: Ấp T, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

(chị L và anh V có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị và anh Nguyễn Hồng V cưới nhau vào năm 2000, có sự tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B năm 2003. Sau khi cưới chị và anh V sống hạnh phúc đến đầu năm 2006 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống. Đời sống chung kéo dài đến năm 2008 thì chị và anh V sống ly thân cho đến nay. Nay chị L yêu cầu xin ly hôn với anh V.

- Về con chung: Có 02 cháu tên Nguyễn Hồng Thảo Q – sinh ngày 18/7/2001 và cháu Nguyễn Hồng Ngọc Q – sinh ngày 08/4/2004, hiện cháu Thảo Q đã trưởng thành, còn cháu Ngọc Q đang sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng cháu Ngọc Q, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

* Tại văn bản lời khai của bị đơn anh Nguyễn Hồng V trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị L cưới nhau vào năm 2000, có sự tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B năm 2003. Sau khi cưới anh và chị L sống hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống. Đời sống chung kéo dài đến năm 2006 thì anh và chị L sống ly thân cho đến nay. Nay chị L xin ly hôn, phía anh V đồng ý ly hôn với chị L.

- Về con chung: Có 02 cháu tên Nguyễn Hồng Thảo Q – sinh ngày 18/7/2001 và cháu Nguyễn Hồng Ngọc Q – sinh ngày 08/4/2004, hiện cháu Thảo Q đã trưởng thành, còn cháu Ngọc Q đang sống với chị L. Khi ly hôn anh đồng ý giao cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng cháu Ngọc Q, anh không cấp dưỡng nuôi con mà để anh và chị L tự thỏa thuận.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Nguyên đơn chị Nguyễn Thị L xin vắng mặt.

- Bị đơn anh Nguyễn Hồng V xin vắng mặt.

- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng pháp luật tố tụng dân sự và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L. Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Hồng V; về con chung: giao cho chị Nguyễn Thị L được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hồng Ngọc Q – sinh ngày 08/4/2004, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Nguyễn Hồng Thảo Q – sinh ngày 18/7/2001 đã trưởng thành nên không xem xét; về tài sản chung và nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xác định quan hệ đang tranh chấp là “Xin ly hôn”.

[1] Xét nguyên đơn chị Nguyễn Thị L và bị đơn anh Nguyễn Hồng V có đơn xin xét xử vắng mặt có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt chị L, anh V.

[2] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L là có cơ sở. Vì chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Hồng V cưới nhau vào năm 2000, được sự tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B số 34 ngày 08/7/2003. Sau khi cưới chị L và anh V sống hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống. Đời sống chung kéo dài đến năm 2006 thì chị L và anh V sống ly thân cho đến nay nhưng giữa chị L, anh V vẫn không hàn gắn được tình cảm. Cho thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh V đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể kéo dài. Tại văn bản lời khai anh V cũng đồng ý ly hôn với chị L. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị L và anh V là phù hợp với Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị L và anh V thống nhất giao cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hồng Ngọc Q – sinh ngày 08/4/2004. Xét sự thỏa thuận của chị L và anh V là sự tự nguyện, phù hợp với nguyện vọng của cháu Ngọc Q và phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Đối với cháu Nguyễn Hồng Thảo Q – sinh ngày 18/7/2001 đã trưởng thành nên không xem xét.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Không có. [6] Về nợ chung: Không có.

[7] Về án phí: Do chị L là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên chị L phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các điều 228, 235 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng vào các điều 55, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L.

Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Hồng V.

- Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị L được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hồng Ngọc Q – sinh ngày 08/4/2004 cho đến khi cháu Ngọc Q đủ 18 tuổi, lao động được. Anh Nguyễn Hồng V không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Nguyễn Hồng V được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà chị L đã nộp theo biên lai thu số 0016755 ngày 01/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Tây, do vậy chị L đã nộp xong án phí.

Báo các đương sự vắng mặt biết được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt án văn hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;