Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CP, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CP xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 530/2020/TLST - HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 359/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Đặng Văn L, sinh năm 1995.

Nơi cư trú: Ấp Phú Trung 2, xã VP, huyện TS, tỉnh An Giang. (Xin vắng mặt).

- Bị đơn: Chị Hồ Thị Dạ Th, sinh năm 1995.

Nơi cư trú: Ấp Bình Ngh, thị trấn CD, huyện CP, tỉnh An Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 21/9/2020 và trong quá trình xét xử nguyên đơn anh Đặng Văn L trình bày: Anh L cà chị Th chung sống năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã VP, huyện TS, tỉnh An Giang. Cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc do bất đồng quan điểm sống, thường hay cải vả nhau, đã ly thân năm 2019 đến nay. Nay tình cảm không còn không thể hàn gắn được nên xin ly hôn với chị Th. Con chung có 01 con chung tên Đặng Hồ Th Ng, sinh ngày 08/8/2018, ly hôn yêu cầu nuôi cháu Ng, không yêu cầu cấp dưỡng. Tài sản chung, nợ chung: không có.

Đối với bị đơn chị Hồ Thị Dạ Th, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác nhưng chị Th vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của chị Th.

Tại phiên tòa, nguyên đơn anh L xin vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa. Ngoài ra, ngày 24/12/2020, Tòa án mở phiên tòa xét xử lần thứ nhất, Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa do nguyên đơn và bị đơn đều vắng mặt. Tuy nhiên, do người nhà của nguyên đơn cho biết anh L không tham dự phiên tòa được là do đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Long Xuyên. Tòa án đã tiến hành đến nhà tạm giữ Công an thành phố Long Xuyên ghi lời khai của anh L thì anh L có ý kiến vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn và xin vắng mặt xét xử.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện CP phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biều ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Quá trình giải quyết vụ án, chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, tại phiên tòa thấy rằng hôn nhân của anh L và chị Th đã lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được, nên anh L yêu cầu ly hôn với chị Th là có cơ sở chấp nhận.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Đặng Hồ Th Ng, sinh ngày 08/8/2018, sau khi vợ chồng ly thân đến nay cháu Ng do anh L chăm sóc, nuôi dưỡng, anh L có yêu cầu tiếp tục nuôi con. Tuy nhiên, hiện anh L đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ Công an thành phố Long Xuyên để điều tra về tội tàng trữ trái phép chất ma túy vào ngày 27/11/2020 và hiện cháu Ng chưa đủ 36 tháng tuổi, nên đề nghị giao cháu Ng cho cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Th vắng mặt không ghi nhận được ý kiến nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Sau này chị Th có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con thì có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, nên đề nghị không xem xét.

- Về nợ chung: Không có, nên đề nghị không xem xét.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết đúng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết: Chị Hồ Thị Dạ Th có hộ khẩu thường trú tại thị trấn CD, huyện CP. Anh L khởi kiện xin ly hôn, Tòa án nhân dân huyện CP thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Bị đơn đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, nguyên đơn xin vắng mặt khi xét xử, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về hôn nhân: Anh L và chị Th chung sống với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VP, huyện TS, tỉnh An Giang, nên được pháp luật công nhận là vợ chồng và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 8; khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Sau khi kết hôn anh chị có cuộc sống hạnh phúc được một thời gian, nhưng thời gian sau xảy ra mâu thuẫn, cải vả nhau, cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, vợ chồng đã ly thân năm 2019 đến nay, hiện nay tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên anh L xin ly hôn với chị Th. Quá trình giải quyết vụ án, anh L đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải, còn chị Th không có ý kiến. Đồng thời, quá trình Tòa án thụ lý giải quyết thì anh L vi phạm pháp luật và đang bị tạm giam tại Nhà thạm giữ Công an thành phố Long Xuyên, Tòa án đã xác minh và ghi nhận ý kiến của anh L và anh L vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy anh L và chị Th đều không có ý định hàn gắn quan hệ vợ chồng, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh L.

- Về con chung: Anh L và chị Th chung sống có 01 con chung tên Đặng Hồ Th Ng, sinh ngày 08/8/2018, từ khi ly thân cháu Ng do anh L chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định và anh L có ý kiến muốn tiếp tục nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy, anh L hiện đang bị tạm giam để điều tra do có hành vi vi phạm pháp luật, không có đủ điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Đồng thời, hiện cháu Ng cũng chưa đủ 36 tháng tuổi. Do đó, để đảm bảo cuộc sống của con chung, Hội đồng xét giao con chung tên Đặng Hồ Th Ng, sinh ngày 08/8/2018 cho chị Th được trực tiếp nuôi dưỡng. Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; quyền nuôi con là không cố định. Vì lợi ích của con theo yêu cầu của một hoặc cả hai, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Th vắng mặt không ghi nhận được ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét. Sau này chị Th có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con thì có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí:

Anh L phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẻ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 27 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đặng Văn L.

Về hôn nhân: Anh Đặng Văn L được ly hôn với chị Hồ Thị Dạ Th.

Giấy chứng nhân đăng ký kết hôn số 51/2017 ngày 26/4/2017 của Ủy ban dân xã VP, huyện TS, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Giao con chung tên Đặng Hồ Th Ng, sinh ngày 08/8/2018 cho chị Hồ Thị Dạ Th được trực tiếp nuôi dưỡng. Anh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Th cùng với các thành viên trong gia đình không được cản trở anh L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha mẹ, hoặc cá nhân, tổ chức, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Anh Đặng Văn L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm được trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003728 ngày 08 tháng 10 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự huyện CP.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;