Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 01/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐĂKLĂK

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 01 tháng 6 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đăk Lăk xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 18/2021/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXX-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1976 (có mặt) Địa chỉ: 51 Thôn H, xã Q, huyện C, tỉnh Đắklăk

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Hữu B, sinh năm 1967 (có mặt) Địa chỉ: 51 Thôn H, xã Q, huyện C, tỉnh Đắklăk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:

Bà và ông Nguyễn Hữu B tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1998 sau thời gian quen biết, tìm hiểu được khoảng 01 năm nhưng đến ngày 12/11/2018 mới đang ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quảng Hiệp. Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn là do ông B quản lý toàn bộ kinh tế gia đình, thường hay đánh đập chửi bới vợ. Từ năm 2019 cho đến nay mặc dù sống chung nhà nhưng cuộc sống của ai người đó tự lo, không liên quan gì đến nhau. Nay vợ chồng không còn tình cảm, không thể sống với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nguyện vọng của bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn ông Nguyễn Hữu B.

Về con chung: Bà T bà ông B có 02 con chung là Nguyễn Quốc B1, sinh ngày 29/9/1999; Nguyễn Bích T1, sinh ngày 10/10/2008. Nguyện vọng của bà T xin được nuôi cháu T1 do cháu đang còn nhỏ, chưa thành niên. Riêng cháu B1 đã trưởng thành, hoàn toàn khỏe mạnh, đang học đại học năm cuối nên cháu ở với ai là tùy cháu, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, về nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết Bị đơn ông Nguyễn Hữu B trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa trình bày:

Ông xác nhận lời trình bày của bà T về quan hệ hôn nhân, con chung là đúng sự thật. Trong cuộc sống vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, hiện nay tình cảm với vợ vẫn còn nên ông B không đồng ý ly hôn. Về con chung thì hai vợ chồng cùng có trách nhiệm như nhau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền Tòa án:

Bà Nguyễn Thị T yêu cầu được ly hôn và nuôi con chung với ông Nguyễn Hữu B nên quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là ly hôn, tranh chấp nuôi con chung. Bà T và ông B hiện nay đang cư trú tại Thôn H, xã Q, huyện C, tỉnh Đăk Lăk. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Mgar, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Hữu B tự nguyện chung sống từ năm 1998 nhưng đến ngày 12/11/2018 mới đang ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quảng Hiệp, huyện CưMgar, tỉnh Đắk Lắk, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống giữa bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Hữu B thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau, ông B có hành vi đánh đập bà T và đã bị công an xã Quảng Hiệp mời lên làm việc hai lần. Nếu ông B là người có trách nhiệm chăm lo xây dựng hạnh phúc gia đình thì mâu thuẫn sẽ được khắc phục kịp thời, vợ chồng có thể chung sống hạnh phúc. Tuy nhiên, bà T không chấp nhận đoàn tụ chung sống mặc dù vợ chồng đã được Tòa án hòa giải nhiều lần. Như vậy, hôn nhân của bà T và ông B lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng không thể đoàn tụ chung sống, mục đích hôn nhân không đạt được nên không chấp nhận yêu cầu đoàn tụ của ông Nguyễn Hữu B, chấp nhận đơn ly hôn của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T, cho bà Nguyễn Thị T được ly hôn ông Nguyễn Hữu B.

[3] Về con chung: Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Hữu B có 02 con chung là là Nguyễn Quốc B1, sinh ngày 29/9/1999; Nguyễn Bích T1, sinh ngày 10/10/2008, nguyện vọng của bà T xin được nuôi con chung là cháu T1 vì cháu đang còn nhỏ. còn cháu B1 đã trưởng thành, hoàn toàn khỏe mạnh nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay bà T đang buôn bán tại chợ Quảng Hiệp có thu nhập ổn định, cháu T1 là con gái nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận nguyện vọng của bà T giao cháu T1 cho bà T nuôi dưỡng đến khi trưởng thành là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng: Nguyễn Thị T không yêu cầu ông Nguyễn Hữu B phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH10 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn ông Nguyễn Hữu B Về con chung: Giao cháu Nguyễn Bích T1, sinh ngày 10/10/2008 cho bà Nguyễn Thị T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu T1 đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của một hoặc hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí mà bà Nguyễn Thị T đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0016546 ngày 21/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư M’gar.

Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 01/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;