Bản án 18/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M - TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 18/2020/HS-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Trong ngày 27 tháng 11năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 51/2020/TLST-HS, ngày 07/9/2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2020/QĐXXST-HS ngày 15/11/2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vàng Mó H, tên gọi khác: Không, giới tính:Nam, Sinh năm 1993 tại Xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu.

Nơi cư trú: Bản Thò M, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: La Hủ; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 9/12 Con ông: Vàng A P, sinh năm 1967 và con bà Phản Mì L, sinh năm 1967, đều trú tại bản Thò M, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu: Anh chị em ruột: Bị cáo có 05 anh chị, bị cáo là con thứ 4 trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ.

Tiền sự: Không; Tiền án: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/5/2020 tại xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu, trong quá trình tại ngoại bị cáo bỏ trốn, bị truy nã từ ngày 15/10/2020, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Ly Phí H, tên gọi khác: Không, giới tính:Nam, Sinh năm 1988 tại Xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu.

Nơi cư trú: Bản Chà G, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: La Hủ; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: Không biết chữ.

Con ông: Ly Mò G, sinh năm 1953 và con bà Vàng Mì H, sinh năm 1963, đều trú tại bản Chà G, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu: Anh chị em ruột: Bị cáo có 06 anh chị, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ.

Tiền sự: Không; Tiền án: Không.

- Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16/5/2020 cho đến ngày 11/08/2020 bị bắt truy nã, hiện nay bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện Mường Tè. Có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Vàng Mo D, tên gọi khác: Không, giới tính:Nam, Sinh năm 1990 tại Xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu.

Nơi cư trú: Bản Thò M, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: La Hủ; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: Không biết chữ.

Con ông: Vàng A P, sinh năm 1967 và con bà Phản Mì L, sinh năm 1967, đều trú tại bản Thò M, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu: Anh chị em ruột: Bị cáo có 05 anh chị, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình; Vợ bị cáo: Ly Xó L, sinh năm 1991.Trú tại bản Thò M, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu; Bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2017.

Tiền sự: Không; Tiền án: Không.

- Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/5/2020 cho đến nay, tại xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu hiện nay bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại: Anh Vũ Văn S, sinh năm 1983, trú tại khu phố 8, Thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt.

* Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm1988, trú tại bản B, xã Bum N, huyện M, tỉnh Lai Châu. Nghề nghiệp: Tự do. Vắng mặt.

- Anh Nguyễn Hữu T, trú tại bản B, xã Bum N, huyện M, tỉnh Lai Châu. Nghề nghiệp: Tự do. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Phan Văn H, sinh năm1976, trú tại bản B, xã Bum N, huyện M, tỉnh Lai Châu. Nghề nghiệp: Tự do. Vắng mặt.

- Chị Ly Xó L, sinh năm 1991,Trú tại bản Thò M, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Trồng trọt. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phan Văn Nhật, Luật sư - Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Lai Châu. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 05/4/2020 Vàng Mó H, sinh năm 1993 cùng anh trai là Vàng Mo D, sinh năm 1990 đều trú tại bản Thò M, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu đi xe mô tô từ nhà xuống bản Huổi H, xã Bum T, huyện M để thăm em gái là Vàng Mó D, trên đường đi đến bản Nà L, xã Bum N, huyện M thì Mó H, Mo D gặp Ly Phí H, sinh năm 1988, trú tại bản Chà G, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu, Mó H và Mó D đã rủ Phí H cùng đi. Khi đến nhà Vàng Mó D thì không thấy gia đình Mó D ở nhà nên cả ba người đi xuống cửa hàng tại cổng Trung tâm y tế huyện M uống nước. Trong lúc uống nước thì cả ba gặp một người đàn ông không rõ lai lịch là người dân tộc Mảng rủ vào bếp của Trung tâm y tế huyện M uống rượu, cả ba người đồng ý cùng đi uống rượu.

Đến khoảng 22 giờ cùng ngày 05/4/2020 sau khi uống rượu xong, Vàng Mó H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên đã mượn xe của Vàng Mo D và rủ Ly Phí H đi cùng, Vàng Mo D không biết việc Mó H và Phí H rủ nhau đi tìm trộm cắp tài sản. Sau đó Mó H lấy được 01 thanh sắt phi 12, dài 90 cm ở bếp đưa cho Phí H cầm rồi Mó H điều khiển xe mô tô chở Phí H xuống bãi cát khu phố 1 Thị trấn Mường T, nơi anh Vũ Văn S, sinh năm 1983, trú tại khu phố 8, Thị trấn Mường T, huyện M, tỉnh Lai Châu để máy xúc, quan sát không có người trông coi nên Mó H dùng thanh sắt mang theo cậy phá khóa hộp đựng bình ắc quy thì phát hiện bên trong hộp có 02 chiếc bình ắc quy đều mang nhãn hiệu N100E- 12V-100Ah-GS, vỏ nhựa màu trắng có logo GS Plus one, nắp màu xanh. Mó H bê từng bình ắc quy ra khỏi hộp đựng, sau đó Phí H và Mó H mỗi người bê một bình lên chỗ để xe mô tô rồi chở 02 bình ắc quy về giấu tại bụi cây xanh gần bếp Trung tâm y tế huyện M. Cất giấu xong 02 chiếc bình ắc quy Mó H và Phí H cùng vào trong nhà bếp ngủ.

Sáng hôm sau ngủ dậy, Mó H và Phí H nói với Mo D là hôm qua hai người vừa đi trộm được 02 bình ắc quy đang giấu ở bụi cây xanh cạnh bếp đồng thời rủ Mo D đi bán 02 chiếc bình nêu trên lấy tiền chia nhau tiêu sài. Mo D đồng ý, nói là “Tao biết chỗ bán” ba người mang 02 bình ắc quy lên nhà anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1988, trú tại bản B, xã Bum N, huyện M, tỉnh Lai Châu, hỏi bán nhưng anh Nguyễn Văn T không mua. Sao đó Mó H, Phí H lên nhà anh Phan Văn H, sinh năm 1976, trú tại bản B, xã Bum N, huyện M, tỉnh Lai Châu, bán cho anh H 02 bình ắc quy được 500.000 đồng, rồi Vàng Mó H mua xăng xe mô tô cho Vàng Mo D 30.000 đồng, số tiền còn lại Vàng Mó H, Ly Phí H, Vàng Mo D mua rượu, đồ ăn cùng nhau sử dụng hết.Vật chứng bị thu giữ xe mô tô không có BKS nhãn hiệu SYM Galaxy Sport màu xanh, đen, trắng số khung xe RLGMD11MDFD001902, số máy VMVBJAD001902, Đến ngày 15/5/2020, khi bị Cơ quan CSĐT Công an M triệu tập đến làm việc Vàng Mó H, Ly Phí H, Vàng Mo D đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Kết luận về định giá tài sản số 07/KL-HĐĐGTS ngày 22/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện M kết luận: 02 bình ắc quy nhãn hiệu N100E- 12V-100Ah-GS, vỏ nhựa màu trắng có logo GS Plus one, nắp màu xanh có tổng giá trị 3.300.000 đồng.

Cáo trạng số 52/ CT- VKS-MT ngày 07/09/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố các bị cáo: Vàng Mó H, Ly Phí H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự. Bị cáo Vàng Mo D về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” Theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề xuất với Hội đồng xét xử, xử các bị cáo: Vàng Mó H, Ly Phí H phạm tội: "Trộm cắp tài sản”; Vàng Mo D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Đề nghị áp dụng khoản 1 điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 17; Điều 58 BLHS. Xử phạt các bị cáo:

+Vàng Mó H từ 06 tháng tù đến 09 tháng Tù;

+ Ly Phí H từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù;

Áp dụng khoản 1 điều 323; điểm i, s khoản1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 BLHS. Xử phạt bị cáo Vàng Mo D từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Pa V, huyện M, giám sát, quản lý, giáo dục.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Vàng Mó H, Ly Phí H, Vàng Mo D. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Người bị hại anh Vũ Văn S, có đơn xin xét xử vắng mặt. Quá trình điều tra, ý kiến trong đơn đề nghị của anh S đã nhận lại 02 chiếc bình ắc quy mang nhãn hiệu N100E- 12V-100Ah-GS, vỏ nhựa màu trắng có logo GS Plus one, nắp màu xanh, của anh S nên không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì.

Đối với anh Phan Văn H là người mua 02 bình ắc quy với Vàng Mó H, Ly Phí H và Vàng Mo D với giá 500.000 đồng, quá trình Điều tra anh H đã giao nộp lại 02 chiếc bình ắc quy trên cho Cơ quan CSĐT Công an huyện M. Anh H không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS. Chấp nhận việc xử lý vật chứng của cơ quan CSĐT- Công an huyện M đã trả 02 chiếc bình ắc quy đều mang nhãn hiệu N100E- 12V- 100Ah-GS, vỏ nhựa màu trắng có logo GS Plus one, nắp màu xanh cho anh Vũ Văn S, sinh năm 1983, trú tại Khu phố 8, Thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu là chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 thanh sắt phi 12, dài 90cm đã qua sử dụng là phương tiện phạm tội và 01 ổ khóa nhãn hiệu Việt Tiệp, màu đen đã qua sử dụng. Trả xe mô tô không có BKS nhãn hiệu SYM Galaxy Sport màu xanh, đen, trắng số khung xe RLGMD11MDFD001902, số máy VMVBJAD001902 cho chị Ly Xó L là tài sản chung của gia đình chị và bị cáo Vàng Mo D, chị không biết việc D mang đi làm phương tiện phạm tội. Về án phí hình sự sơ thẩm đề nghị HĐXX áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đối với các bị cáo có hoàn khó khăn, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị HĐXX xem xét miễn án phí HSST cho các bị cáo.

* Người bào chữa cho các bị cáo: Nhất trí quan điểm truy tố đối với các bị cáo Vàng Mó H, Ly Phí H phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 BLHS và truy tố bị cáo Vàng Mo D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà ” theo khoản 1 Điều 323 BLHS.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 17; Điều 58 BLHS. Xử phạt các bị cáo Vàng Mó H và Ly Phí H với mức án thấp nhất.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 BLHS. Xử phạt bị cáo Vàng Mo D cải tạo không giam giữ từ 09 tháng đến 12 tháng. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Pa V, huyện M, giám sát, quản lý, giáo dục.Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo; Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Bị hại anh Vũ Văn S đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phan Văn H không có yêu cầu bồi thường gì.

Về áp dụng biện pháp tư pháp: Đề nghị HĐXX xem xét trả xe mô tô không có BKS nhãn hiệu SYM Galaxy Sport màu xanh, đen, trắng số khung xe RLGMD11MDFD001902, số máy VMVBJAD001902 cho gia đình chị Ly Xó L, trú tại bản Thò M, xã Pa V- huyện M đây là tài sản chung của gia đình chị và bị cáo Vàng Mo D, chị không biết việc D mang đi làm phương tiện phạm tội.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo không có tài sản, gia đình khó khăn, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị HĐXX xem xét miễn nộp án phí cho các bị cáo.

Đối với anh Phan Văn H là người đã mua 02 chiếc bình ắc quy của Vàng Mó H, Ly Phí H, Vàng Mo D. Quá trình điều tra xác định anh H không biết 02 chiếc bình ắc quy mua của các bị cáo là tài sản do trộm cắp mà có. Do đó không xem xét trách nhiệm hình sự đối với anh H.

Người bị hại Vũ Văn S vắng mặt có đơn đề nghị Hội đồng xét xử, xét xử các bị cáo theo quy định pháp luật. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại anh S không có đề nghị bồi thường gì.

Tại phiên tòa các bị cáo Ly Phí H, Vàng Mo D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, các bị cáo rất hối hận về hành vi vi phạm pháp luật. Các bị cáo nhất trí với bản Luận tội, Lời bào chữa, các bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên, trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có ai ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Khoảng 22 giờ, ngày 05/4/2020 tại bãi cát khu phố 1 Thị trấn Mường T, huyện M, nơi anh Vũ Văn S để máy xúc, lợi dụng nơi vắng vẻ, không có người trông coi máy, các bị cáo Vàng Mó H, Ly Phí H dùng thanh sắt mang theo cậy phá khóa việt tiệp hộp đựng bình ắc quy, rồi lấy trộm 02 chiếc bình ắc quy đều mang nhãn hiệu N100E- 12V-100Ah-GS, vỏ nhựa màu trắng có logo GS Plus one, nắp màu xanh của anh Vũ Văn S. Đem về giấu tại bụi cây xanh gần bếp Trung tâm y tế huyện M. Sáng hôm sau ngủ dậy, Mó H và Phí H nói với Mo D việc lấy trộm 02 bình ắc quy, sau khi trao đổi nơi bán Mo D đồng ý đi bán cùng với Mó H , Phí H, các bị cáo đã bán 02 bình ắc quy cho anh Phan Văn H, sinh năm 1976, trú tại bản B, xã Bum N, huyện M được 500.000 đồng, rồi Mó H mua xăng xe mô tô cho Mo D 30.000 đồng, số tiền còn lại 470.000 đồng Mó H, Phí H, Mo D tiêu sài hết. 02 chiếc bình ắc quy của anh S có tổng giá trị 3.300.000 đồng.

Như vậy hành vi trộm cắp của bị cáo Vàng Mó H, Ly Phí H đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của anh Vũ Văn S, do đó các bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” .Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015. “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” Hành vi của bị cáo Vàng Mo D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Quy định tại khoản 1 Điều 323 BLHS.

“ Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, nhằm mục đích tư lợi cá nhân các bị cáo Mó H và Phí H đã trộm cắp của anh Vũ Văn S; Bị cáo Vàng Mo D tiêu thụ tài sản do trộm cắp mà có. Giá trị tài sản các bị cáo trộm cắp 02 bình ắc quy có tổng giá trị 3.300.000 đồng. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự vì vậy các bị cáo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quả do hành vi mình đã thực hiện.

[4] Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử cần phải xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Xét về nhân thân bị cáo: Các bị cáo Ly Phí H, Vàng Mó H sinh sống và làm ăn tại xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu, có nơi cư trú rõ ràng, các bị cáo là người dân tộc La Hủ. Bị cáo Ly Phí H không biết chữ sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Vàng Mó H, Ly Phí H chưa có tiền sự, tiền án. Trong quá trình điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, đều phạm tội lần đầu. HĐXX áp dụng điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 BLHS.

Đối với Ly Phí H khi được áp dụng biện pháp tại ngoại bị cáo Phí H đã bỏ trốn, bị cáo Ly Phí H bị bắt truy nã. Đối với bị cáo Vàng Mó H trong quá trình xét xử bị cáo không thực hiện đúng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo được tại ngoại, bị cáo bỏ trốn, kết quả truy nã bị cáo vắng mặt nơi cư trú, đã bỏ trốn đi đâu không rõ, do đó việc đưa vụ án ra xét xử vắng mặt là đúng quy định theo điểm a khoản 2 Điều 290 BLTTHS.

Đối với bị cáo Vàng Mo D sinh sống và làm ăn tại bản Thò M, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu. Bị cáo D có nơi cư trú rõ ràng, bản thân bị cáo chưa có tiền sự, tiền án, bị cáo D không biết chữ nên sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế, là người dân tộc La Hủ.Trong quá trình điều tra, tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Hoàn cảnh của bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2012 nhỏ nhất sinh năm 2017, các con của bị cáo đều là vị thành niên, hiện tại các con của bị cáo đang độ tuổi ăn học, sống phụ thuộc vào bị cáo, nếu áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo sẽ ảnh hưởng đến điều kiện sinh sống cũng như điều kiện học hành của các con bị cáo, hiện nay cả nhà chỉ trông nhờ bị cáo. Do đó không nhất thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cần khoan hồng, dăn đe, giáo dục cải tạo bị cáo. Hội đồng xét xử áp dụng theo điểm i, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 BLHS đây là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được hưởng sự khoan của pháp luật, với một cơ hội làm người lương thiện, nay tuổi đời bị cáo còn trẻ cần phấn đấu để trở thành người có ích cho xã hội và gia đình. Do vậy HĐXX áp dụng Điều 36 BLHS đối với Vàng Mo D.

Các bị cáo phạm tội đồng phạm giản đơn. Đối với Mó H là người chủ mưu, sau khi Vàng Mó H và Ly Phí H trộm cắp được 02 bình ắc quy của anh Vũ Văn S, trú tại khu phố 8, thị trấn Mường T, huyện M để bên trong hộp có khóa trên máy súc tại bãi cát Khu phố 1,Thị trấn Mường T các bị cáo đã rủ Vàng Mo D đi tiêu thụ tài sản. Hành vi của Ly Phí H là thứ yếu. HĐXX căn cứ áp dụng Điều 17, Điều 58 BLHS.

[5] Hình phạt bổ sung:

Tại khoản 5 Điều 173; khoản 5 Điều 323 BLHS các bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, xét thấy hoàn cảnh kinh tế của các bị cáo khó khăn, không có tài sản, không có điều kiện thi hành, HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại anh Vũ Văn S, quá trình điều tra anh S đã nhận lại 02 chiếc bình ắc quy mang nhãn hiệu N100E- 12V-100Ah-GS, vỏ nhựa màu trắng có logo GS Plus one, nắp màu xanh, anh S không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì nên không đặt vấn đề giải quyết.

Đối với anh Phan Văn H là người mua 02 bình ắc quy với Vàng Mó H, Ly Phí H và Vàng Mo D với giá 500.000 đồng, quá trình điều tra anh H đã giao nộp lại 02 chiếc bình ắc quy trên cho Cơ quan CSĐT Công an huyện M. Anh H không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì nên không đặt vấn đề giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng:

01 thanh sắt phi 12, dài 90cm đã qua sử dụng. Đây là công cụ phương tiện mà các bị cáo Mó H và Phí H dùng để phá khóa việt tiệp tại hộp đựng 02 bình ắc quy, cần tịch thu tiêu hủy; 01 ổ khóa nhãn hiệu Việt Tiệp, màu đen đã qua sử dụng đã bị hỏng không sử dụng được nữa cần tịch thu tiêu hủy.

Chấp nhận việc xử lý vật chứng của cơ quan CSĐT Công an huyện M trả 02 chiếc bình ắc quy đều mang nhãn hiệu N100E- 12V-100Ah-GS, vỏ nhựa màu trắng có logo GS Plus one, nắp màu xanh cho anh Vũ Văn S, sinh năm 1983, trú tại Khu phố 8, Thị trấn Mường T, huyện M, tỉnh Lai Châu là chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp.

Trả xe mô tô không có BKS nhãn hiệu SYM Galaxy Sport màu xanh, đen, trắng số khung xe RLGMD11MDFD001902, số máy VMVBJAD001902 cho chị Ly Xó L, sinh năm 1991, trú tại bản Thó M, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu, đây là tài sản chung của gia đình chị và bị cáo Vàng Mo D, chị không biết việc chồng chị (Vàng Mo D) mang xe mô tô đi làm phương tiện phạm tội.

[8] Án phí hình sự sơ thẩm:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo theo điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo đều là dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

[9] Quyền kháng cáo: Các bị cáo, Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ lien quan có quyền kháng cáo bản án theo Điều 331; Điều 333 BLTTHS.

Vì các lẽ trên:

1.Tuyên bố các bị cáo:

QUYẾT ĐỊNH

Vàng Mó H, Ly Phí H phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Vàng Mo D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

- Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự; Điều 260; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt các bị cáo:

+Vàng Mó H 09 (Chín ) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

+Ly Phí H 07 (Bảy ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 11/08/2020.

-Áp dụng khoản 1 điều 323; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự; Điều 260; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo Vàng Mo D 10 (Mười) tháng cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Vàng Mo D cho Ủy ban nhân dân xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu giám sát, quản lý, giáo dục.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu 01 thanh sắt phi 12, dài 90cm đã qua sử dụng và 01 ổ khóa nhãn hiệu Việt Tiệp, màu đen đã qua sử dụng.

Trả chiếc xe mô tô không có BKS nhãn hiệu SYM Galaxy Sport màu xanh, đen, trắng số khung xe RLGMD11MDFD001902, số máy VMVBJAD001902 cho chị Ly Xó L, sinh năm 1991, trú tại bản Thó M, xã Pa V, huyện M, tỉnh Lai Châu.

3.Về án phí hình sự sơ thẩm: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Vàng Mó H, Ly Phí H và Vàng Mo D.

Án xử công khai sơ thẩm: Có mặt các bị cáo Ly Phí H, Vàng Mo D, các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án. Người bị bại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền lợi của mình lên Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:18/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;