Bản án 18/2020/HS-ST ngày 17/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 18/2020/HS-ST NGÀY 17/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 17 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Ngọc T, sinh ngày: 01/01/1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 538/3 đường A, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn L và bà: Diệp Thị Thu Th; tiền án: không; tiền sự: có 02 tiền sự, ngày 09/3/2015, bị Tòa án nhân dân Quận 10 ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 20 tháng do có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 47/QĐ-CSCNBB-TA, ngày 02/6/2017, bị Tòa án nhân dân Quận 10 ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 21 tháng do có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 62/QĐ-CSCNBB-TA; nhân thân: Ngày 14/02/2012, bị Ủy ban nhân dân Quận 10 ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định số 787/QĐ-UBND; bị bắt giữ ngày: 28/11/2019.

(Bị cáo có mặt).

- Bị hại:

Ông Châu Thành Nh, sinh năm: 1982 (Vắng mặt).

Địa chỉ: 343/68C đường A, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 00 ngày 21/11/2019, bị cáo Trần Ngọc T rủ một đối tượng thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) đi trộm cắp tài sản thì đối tượng trên đồng ý. Đối tượng thanh niên không rõ lai lịch, địa chỉ điều khiển xe mô tô hiệu Attila (không rõ biển số) chở bị cáo Trần Ngọc T qua nhiều tuyến đường tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Đến khoảng 3 giờ 15 phút cùng ngày, khi đến trước nhà số 121 Nguyễn Lâm, Phường 6, Quận 10 thì bị cáo T nhìn thấy 01 chiếc xe mô tô biển số 53R9-7509 của ông Châu Thành Nh dựng trước nhà, không người trông coi, chìa khóa cắm sẵn trên xe. Khi bị cáo T xuống xe thì đối tượng thanh niên bỏ đi, bị cáo Tiến đi bộ đến gần lấy chiếc xe mô tô trên tẩu thoát, sau khi lấy trộm được chiếc xe trên, bị cáo T đổi biển số 53R9-7509 thành biển số 59U2-18405 còn biển số biển số 53R9-7509 bị cáo T vứt bỏ không thu hồi được. Ngày 26/11/2019 bị cáo T đi mua ma túy về sử dụng do bị ảo giác nên đi lộn vào nhà người khác nên bị Công an Phường 3, Quận 10 mời về làm việc. Vụ việc được Công an Phường 3, Quận 10 lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10.

Tài sản bị chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô hiệu Hope màu xám. Tại Kết luận định giá tài sản số 1065/KL-ĐGTS ngày 09/12/2019 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 10 kết luận: Chiếc xe mô tô trên có giá trị là 2.500.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã trả lại tài sản cho ông Châu Thành Nh. Nhận lại tài sản, ông Nh không có yêu cầu gì khác.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố, điều tra đối với Trần Ngọc T về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Quá trình điều tra, bị cáo Trần Ngọc T khai nhận hành vi như trên.

Đối với 01 chiếc áo khoác màu trắng là trang phục bị cáo T mặc khi thực hiện hành vi phạm tội và 01 biển số 59U2-184.05 lưu hành bất hợp pháp, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 đã có Quyết định chuyển các vật chứng trên đến Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10 chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 25/CT-VKSQ10 ngày 04 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Trần Ngọc T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản Cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo đối với xã hội, bị hại và nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng), nhân thân của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, h, i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo: Trần Ngọc T từ 09 tháng đến 01 năm 03 tháng tù, miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Ý kiến của bị cáo: Không có ý kiến gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Trần Ngọc T đã có hành vi lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của bị hại trong việc quản lý tài sản để thực hiện hành vi lấy trộm 01 chiếc xe mô tô có giá trị là 2.500.000 (hai triệu năm trăm nghìn) đồng nên bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra bị cáo còn có 02 tiền sự; ngày 09/3/2015, bị Tòa án nhân dân Quận 10 ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 20 tháng do có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, ngày 02/6/2017, bị Tòa án nhân dân Quận 10 ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 21 tháng do có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” và nhân thân không tốt: Ngày 14/02/2012, bị Ủy ban nhân dân Quận 10 ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, điều này chứng tỏ bị cáo rất coi thường pháp luật. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo lần này cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương. Ngoài ra áp dụng khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) phạt bổ sung bị cáo Tiến một số tiền để nộp ngân sách Nhà nước.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiệm trọng; do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, h, i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi giao trả cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì; do vậy Hội đồng xét xử không có gì để giải quyết.

Đối với 01 biển số 59U2-184-05, qua xác minh biển số này do bà Dương Hoàng Mỹ Y đăng ký sở hữu xe mô tô hiệu Wave, hiện bà Y vẫn sử dụng chiếc xe trên và không mất biển số. Xét thấy biển số 59U2-184-05 được bị cáo T lưu hành bất hợp pháp nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tịch thu và tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc áo khoác màu trắng là trang phục bị cáo T mặc khi thực hiện hành vi phạm tội không có giá trị nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tịch thu và tiêu hủy.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào khoản 1, 5 Điều 173; điểm s, h, i khoản 1 Điều 51; Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/11/2019.

Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 (năm triệu) đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tịch thu và tiêu hủy 01 biển số 59U2-184-05 và 01 chiếc áo khoác màu trắng.

(Tình trạng vật chứng Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/3/2020 giữa Công an Quận 10 và Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Trần Ngọc T chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thị hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án:

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2020/HS-ST ngày 17/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:18/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;