Bản án 18/2020/HSST ngày 12/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 18/2020/HSST NGÀY 12/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2020/TLST-HS, ngày 16 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2020/QĐXXST-HS ngày 02/03/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2020/HSST-QĐ ngày 29/4/2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Công Th, sinh năm 1994; tại: tỉnh Nghệ An; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm M, xã N, huyện P, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Công Ng, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1971; chưa có vợ con. Tiền án: 02 tiền án: ngày 11/5/2016 bị TAND huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án HSST số 143/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 04/9/2017, chưa được xóa án tích; ngày 10/01/2020 bị TAND huyện Đăk’RLấp, tỉnh Đăk Nông xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ tái phép chất ma túy” và 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 01/2020/HSST, đang chấp hành án tại trại giam Đăk P’Lao – Bộ Công an; nhân thân: ngày 27/11/2014, bị TAND huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án HSST số 87/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 24/4/2015, đã được xóa án tích; bị cáo đang chấp hành án tại trại giam Đăk P’Lao – Bộ Công an. Có mặt

- Bị hại: Anh Vũ Văn H – sinh năm 1981

Địa chỉ: Thôn M, xã N, TP. P, tỉnh Đăk Nông. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Đậu Thị Thu H

Địa chỉ: Thôn M, xã N, TP. P, tỉnh Đăk Nông. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 14/09/2019, Nguyễn Công Th (SN 1994, HKTT: xóm M, xã N, huyện P, tỉnh Nghệ An) đón xe khách đi từ thành phố Hồ Chí Minh lên huyện P, tỉnh Đăk Nông với mục đích trộm cắp tài sản, bán lấy tiền tiêu xài. Khi xe khách đi đến ngã tư cầu 20 thuộc thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông, Nguyễn Công Th xuống xe đi bộ theo hướng về xã M1, huyện P1. Th đi khoảng 500m nhìn vào trong sân của Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Đăk N’T (thuộc thôn M2, xã N2, huyện P, tỉnh Đăk Nông), phát hiện một môtô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX F1, màu đen, BKS: 48B1-439.41 (của anh Vũ Văn H, địa chỉ: thôn M, xã N, TP. P, tỉnh Đăk Nông) không có ai trông coi nên Thú đi lại vị trí để xe, dùng van phá ổ khóa điện, nổ máy rồi điều khiển xe môtô trộm cắp được ra đường QL14, chạy theo hướng về TP. Hồ Chí Minh. Khi đến huyện P1, tỉnh Đăk Nông Nguyễn Công Th thuê nhà nghỉ Thủy Ng (địa chỉ tổ M, thị trấn N, huyện P1) với mục đích thuê phòng nghỉ, giấu chiếc xe máy này ở đây để tiếp tục tìm tài sản để trộm cắp. Đến ngày 16/9/2019, Th cất dấu ma túy trong người và quay lại nhà nghỉ Thủy Ng để lấy xe BKS: 48B1-439.41 để mang đi tiêu thụ thì bị Công an huyện Đăk R’Lấp bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đồng thời thu giữ xe máy nói trên.

Tại bảng kết luận định giá tài sản ngày 21/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đăk Song kết luận: chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX F1, màu đen, BKS: 48B1-439.41, số khung: RLH5A3819GI003054, số máy: JA38E0008999 có giá trị còn lại là 21.600.000 đồng.

Ti Bản cáo trạng số 08/CTr-VKS ngày 15 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song truy tố bị cáo Nguyễn Công Th về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Công Th về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi phân tích đánh giá tính chất hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đại diện VKS đề nghị HĐXX áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Công Th từ 03 năm đến 04 năm tù. Đề nghị áp dụng Điều 55, Điều 56 BLHS tổng hợp hình phạt 05 năm tù của bản án số 01/2020/HSST ngày 10/01/2020 của TAND huyện Đăk R’Lấp. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của 02 bản án từ 08 đến 09 năm tù.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị chấp nhận Cơ quan CSĐT Công an huyện Đăk Song trả lại cho anh Vũ Văn H:

- 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX F1, màu đen, BKS: 48B1- 439.41, số khung: RLH5A3819GI003054, số máy: JA38E0008999, đã qua sử dụng.

Bên trong cốp xe có các giấy tờ gồm:

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 013950, biển số đăng ký 48B1 - 439.41, mang tên Vũ Văn H địa chỉ: Thôn M, xã N, TP. P, Đăk Nông, do Phòng CSGT Công an tỉnh Đăk Nông, cấp ngày 20/01/2017.

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1, mang tên Vũ Văn H, do Sở giao thông vận tải cấp 19/01/2016.

- 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô, xe máy, chủ xe Vũ Văn H, số BKS 48B1-439.41, do tổng Công ty bảo hiểm Bưu điện PTI cấp ngày 22/5/2019.

- 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 245227809 mang tên Vũ Văn H.

- 01 (một) thẻ ATM, có dãy số 5391460008924559 mang tên Vũ Văn H.

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Đậu Thị Thu H, (sinh năm 20/8/1990, địa chỉ xã M, TP. P, tỉnh Đăk Nông), do Sở giao thông vận tải tỉnh Đăk Nông cấp ngày 19/3/2018.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 00043780, biển số đăng ký 48F8-7746 mang tên Đậu Thị Thu H, do phòng CSGT Công an tỉnh Đăk Nông, cấp ngày 09/01/2008.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 0194730, biển số đăng ký 60M4-6500 mang tên Gián Nhộc Đ, địa chỉ: 27 Phố 1, ấp 2, xã M, huyện P, tỉnh Đồng Nai, do phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 09/01/2003.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 0065265, biển số đăng ký 47L1-4176, do Phòng CSGT Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 30/12/2000.

* Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra xác định các vật chứng thu giữ nêu trên là của anh Vũ Văn H, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đăk Song đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho anh Vũ Văn H.

* Về phần trách nhiệm dân sự: anh Vũ Văn H không yêu cầu Nguyễn Công Thú bồi thường thiệt hại.

Tại phiên tòa bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo là người có đủ nhận thức pháp luật để biết hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng do bản tính lười lao động, bản thân nghiện ma túy muốn có tiền để tiêu sài cá nhân nên khoảng vào khoảng 13 giờ, ngày 14/9/2019, tại Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Đăk N’T thuộc thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu, Nguyễn Công Th đã có hành vi lén lút trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX F1, màu đen, BKS: 48B1- 439.41, số khung: RLH5A3819GI003054, số máy: JA38E0008999 của anh Vũ Văn H có giá trị 21.600.000 đồng. Trước đó, ngày 28/6/2019 bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ở địa bàn huyện P, tỉnh Đăk Nông, bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích theo bản án số 143/2016/HSST ngày 11/5/2016 của TAND TX. Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Đến ngày 14/9/2019 bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tại Đăk Song, do đó lần phạm tội này bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS. Vì vậy HĐXX xét thấy đã đủ cơ sở pháp lý kết luận hành vi nêu trên của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của BLHS.

Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định “Tội trộm cắp tài sản” như sau:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:

a) …

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) ….

g) Tái phạm nguy hiểm.

……

Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo Nguyễn Công Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có nhân thân xấu, trước đó bị cáo đã 03 lần bị xét xử về tội “trộm cắp tài sản”, bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội với tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm”. HĐXX xét thấy cần phải có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, HĐXX xét thấy cần xem xét tình tiết trên để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước ta.

[5] Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh bị cáo là người không có tài sản, không có thu nhập ổn định, không có điều kiện để thi hành hình phạt bổ sung. Vì vậy, HĐXX xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét giải quyết.

[7] Về vật chứng vụ án: Chấp nhận xử lý vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song trả lại cho anh Vũ Văn H:

- 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX F1, màu đen, BKS: 48B1- 439.41, số khung: RLH5A3819GI003054, số máy: JA38E0008999, đã qua sử dụng..

Bên trong cốp xe có các giấy tờ gồm:

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 013950, biển số đăng ký 48B1 - 439.41, mang tên Vũ Văn H, do Phòng CSGT Công an tỉnh Đăk Nông, cấp ngày 20/01/2017.

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1, mang tên Vũ Văn H, do Sở giao thông vận tải cấp 19/01/2016.

- 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô, xe máy, chủ xe Vũ Văn H, số BKS 48B1-439.41, do tổng Công ty bảo hiểm Bưu điện PTI cấp ngày 22/5/2019. - 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 245227809 mang tên Vũ Văn H.

- 01 (một) thẻ ATM, có dãy số 5391460008924559 mang tên Vũ Văn H.

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Đậu Thị Thu H, do Sở giao thông vận tải tỉnh Đăk Nông cấp ngày 19/3/2018.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 00043780, biển số đăng ký 48F8-7746 mang tên Đậu Thị Thu H, do phòng CSGT Công an tỉnh Đăk Nông, cấp ngày 09/01/2008.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 0194730, biển số đăng ký 60M4-6500 mang tên Gián Nhộc Đ, do phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 09/01/2003.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 0065265, biển số đăng ký 47L1-4176, do Phòng CSGT Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 30/12/2000.

[8]. Xét đề nghị của đại diện viện kiểm sát về mức hình phạt, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng là phù hợp nên cần chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luạt.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công Thú phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn Cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Công Th 03 (ba) năm tù.

n cứ Điều 56 của BLHS tổng hợp hình phạt 05 năm tù của bản án số 01/2020/HSST ngày 10/01/2020 của TAND huyện Đăk R’Lấp. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của 02 bản án là 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 16/9/2019.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận xử lý vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song trả lại cho anh Vũ Văn H:

- 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX F1, màu đen, BKS: 48B1- 439.41, số khung: RLH5A3819GI003054, số máy: JA38E0008999, đã qua sử dụng. Bên trong cốp xe có các giấy tờ gồm:

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 013950, biển số đăng ký 48B1 - 439.41, mang tên Vũ Văn H, do Phòng CSGT Công an tỉnh Đăk Nông, cấp ngày 20/01/2017.

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1, mang tên Vũ Văn H, do Sở giao thông vận tải cấp 19/01/2016.

- 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô, xe máy, chủ xe Vũ Văn H, số BKS 48B1-439.41, do tổng Công ty bảo hiểm Bưu điện PTI cấp ngày 22/5/2019.

- 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 245227809 mang tên Vũ Văn H.

- 01 (một) thẻ ATM, có dãy số 5391460008924559 mang tên Vũ Văn H.

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Đậu Thị Thu H, do Sở giao thông vận tải tỉnh Đăk Nông cấp ngày 19/3/2018.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 00043780, biển số đăng ký 48F8-7746 mang tên Đậu Thị Thu H, do phòng CSGT Công an tỉnh Đăk Nông, cấp ngày 09/01/2008.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 0194730, biển số đăng ký 60M4-6500 mang tên Gián Nhộc Đ, do phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 09/01/2003.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 0065265, biển số đăng ký 47L1-4176, do Phòng CSGT Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 30/12/2000.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Công Th phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2020/HSST ngày 12/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:18/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;