Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 27/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 18/2020/HNGĐ-ST NY 27/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 27 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử công khai vụ án thụ lý số 19/2020/TLST - HNGĐ ngày 10 tháng 02 năm 2020 về “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phùng Thị T, sinh năm 1993, ĐKHKTT: xóm 6, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; Nơi ở hiện nay: thôn Q, xã H, huyện C, thành phố Hà Nội ( Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt ).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh G, sinh năm 1991; ĐKHKTT và trú tại: xóm 6, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình ( Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Phùng Thị T trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án trình bày: Chị và anh Nguyễn Mạnh G kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại UBND xã K năm 2015. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ đẻ của anh G ở xóm 6, xã K, huyện K. Vợ chồng đã có thời gian chung sống hòa thuận sau đó phát sinh mâu thuẫn, vì mâu thuẫn chị và Nguyễn Mạnh G đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai.

Theo chị T thì nguyên nhân mâu thuẫn là do anh G ghen tuông vô cớ chửi bới, đánh đập chị. Mặc dù chị đã nhiều lần khuyên giải nhưng anh G không thay đổi. Vì không thể chịu đựng được nên đến tháng 4/2019 chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại thôn Q, xã H, huyện C, thành phố Hà Nội để sinh sống, ly thân với anh G. Đến nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể quay về chung sống với nhau được nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị xác định vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Bích D, sinh ngày 07/01/2016, hiện đang ở với chị, khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung , không yêu cầu anh G đóng góp tiền nuôi con cho chị Về tài sản: Chị xác định vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Mạnh G trong văn bản ngày 22/4/2020 trình bày: Về điều kiện, thời gian kết hôn, anh xác định như chị T đã trình bày. Trong quá trình chung sống giữa vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn. Chị T đã từng có ý định làm thủ tục ly hôn với anh nhưng anh đã khuyên giải để vợ chồng về chung sống. Nay chị T tiếp tục yêu cầu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn thì anh cũng nhất trí vì anh xác định không thể níu kéo được chị T nữa.

Về con chung và tài sản chung: Anh xác định vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Bích D, sinh ngày 07/01/2016, hiện đang ở với chị T, khi ly hôn, anh nhường quyền nuôi con cho chị T và không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị T.

Về tài sản chung: Anh xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết Do bận công việc nên chị T và anh G đều có đơn xin xét xử vắng mặt.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K về tố tụng: nguyên đơn, bị đơn và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của BLTTDS Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K về hướng giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ; Điều 147, 228 BLTTDS; Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH14: Xử ly hôn giữa chị Phùng Thị T và anh Nguyễn Mạnh G; giao chị Phùng Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của vợ chồng là Nguyễn Bích D, sinh ngày 07/01/2016 đến khi thành niên; anh Nguyễn Mạnh G không phải đóng góp tiền nuôi con cho chị T; chị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Chị Phùng Thị T khởi kiện yêu cầu giải quyết việc ly hôn và tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn với anh Nguyễn Mạnh G, cư trú tại xóm 6, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; căn cứ quy định tại điều 28 và 39 BLTTDS vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện K.

Nguyên đơn chị Phùng Thị T, bị đơn anh Nguyễn Mạnh G do bận công việc nên đã có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 3 Điều 228 BLTTDS Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phùng Thị T và anh Nguyễn Mạnh G kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn năm 2015 tại UBND xã K, là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật HNGĐ; sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận một thời gian thì mới phát sinh mâu thuẫn. Về phía chị T xác định mâu thuẫn vợ chồng là do anh G ghen tuông vô cớ, thường chửi bới, đánh đập chị. Vì không thể chịu đựng được nên chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ để sinh sống, ly thân với anh G.

Về phía anh G, anh không nêu rõ nguyên nhân dẫn đến việc vợ chồng mâu thuẫn nhưng anh cũng thừa nhận vợ chồng anh xảy ra mâu thuẫn từ lâu, chị T đã từng có ý định ly hôn và anh đã khuyên giải, vợ chồng đã về đoàn tụ thời gian ngắn nhưng tiếp tục sống ly thân từ tháng 4/2019 đến nay. Nay chị T kiên quyết ly hôn thì anh cũng nhất trí vì không thể níu kéo được nữa.

Xác minh tình trạng hôn nhân của chị Phùng Thị T và anh Nguyễn Mạnh G tại UBND xã K là nơi anh chị cư trú, thì chính quyền địa phương cung cấp: Từ trước đến nay địa phương chưa lần nào nhận được đơn yêu cầu hòa giải tại cơ sở từ phía chị T, anh G nên không nắm được nguyên nhân cụ thể dẫn đến việc vợ chồng anh chị mâu thuẫn là gì nhưng hiện nay chị T đã bỏ về quê gốc để sinh sống từ tháng 5/2019.

Như vậy mặc dù việc trình bày nguyên nhân mâu thuẫn là khác nhau nhưng cả hai bên đều cho rằng giữa vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn. Quá trình Tòa án giải quyết đã tiến hành hòa giải nhưng chị T, anh G đều có thái độ bỏ mặc, không quan tâm đến cuộc sống chung.

Từ những căn cứ đó đã có đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân của chị T và anh G hiện nay đã trầm trọng, mâu thuẫn không thể khắc phục, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể duy trì cuộc sống chung; căn cứ quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình, yêu cầu của chị T giải quyết ly hôn với anh G là có căn cứ được chấp nhận.

[3] Về quan hệ con chung : Qua trình bày của hai bên và xác minh tại địa phương thì xác định vợ chồng chị T, anh G có 01 con chung là Nguyễn Bích D, sinh ngày 07/01/2016 Khi ly hôn, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh G đóng góp tiền nuôi con cho chị. Anh G cũng nhất trí về việc này.

Thực tế từ khi ly thân đến nay con chung do chị T trực tiếp nuôi dưỡng và cuộc sống của con chung vẫn được đảm bảo mà không có sự đóng góp của anh G; mặc dù được giải thích nhưng chị T vẫn không yêu cầu anh G phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị khi ly hôn. Để đảm bảo cuộc sống ổn định về sinh hoạt, học tập của con chung thì việc giao chị T tiếp tục nuôi con chung và anh G không phải đóng góp tiền nuôi con chung là phù hợp [4] Về tài sản chung: Chị Phùng Thị T và anh Nguyễn Mạnh G đều không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về vấn đề này

[5] Về án phí: Căn cứ quy định tại điều 147 BLTTDS và Nghị quyết 326/2016/NQUBTVQH14 buộc chị T phải nộp toàn bộ án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật HNGĐ; Điều 147, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự  và Nghị quyết 326/2016/NQUBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Xử ly hôn giữa chị Phùng Thị T và anh Nguyễn Mạnh G.

2/ Về con chung: Giao chị Phùng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung của vợ chồng là Nguyễn Bích D, sinh ngày 07/01/2016 đến khi thành niên. Anh G không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung với chị T. Không bên nào được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc con chung.

3/ Về án phí: Chị Phùng Thị T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA2273 ngày 10/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 27/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn

Số hiệu:18/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;