Bản án 18/2020/DS-ST ngày 20/08/2020 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PL, TỈNH BL

BẢN ÁN 18/2020/DS-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Trong ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện PL, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 07/2020/TLST-DS ngày 07/01/2020 về“Tranh chấp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2020/QĐXX-ST ngày 08 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 61/2020/QĐST-DS ngày 31 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị N T C, sinh năm 1973;

Địa chỉ: ấp PT, xã PL, H PL, T BL 2. Đồng bị đơn: Bà M B N, sinh năm 1977;

Địa chỉ: ấp PT, xã PL, H PL, T BL 3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông P V H, sinh năm 1978;

Địa chỉ: ấp PT, xã PL, H PL, T BL (Chị C có mặt, bà N và ông H vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai nguyên đơn chị N T C trình bày:

Bà M B N cùng chồng ông Phạm Minh H có tham gia 05 dây hụi do chị C làm chủ hụi, cụ thể: dây hụi thứ nhất loại hụi 1.000.000 đồng/ 1 tháng, mở hụi ngày 05/3/2016, dây hụi mở có 26 phần hụi, bà N có tham gia chơi 03 phần hụi và đã hốt hụi ở các lần 8, 10, 12, còn nợ lại 05 phần hụi chết x 03 phần hụi x 1.000.000 đồng/ 1 phần bằng 15.000.000 đồng; dây hụi thứ hai loại hụi 1.000.000 đồng/ 1 tháng, mở hụi ngày 20/4/2017, dây hụi mở có 20 phần hụi, bà N có tham gia chơi 02 phần hụi và đã hốt ở kỳ mở hụi thứ 07 và thứ 09, đóng hụi chết được đến lần thứ 10 thì nghĩ đóng, còn nợ lại 20 phần hụi chết với số tiền 20.000.000 đồng; dây hụi thứ ba loại hụi 1.000.000 đồng/ 1 tháng, mở hụi ngày 02/4/2017, dây hụi mở có 20 phần hụi, bà N có tham gia chơi 02 phần hụi và đã hốt ở kỳ mở hụi thứ 04 và thứ 10, đóng hụi chết được đến lần thứ 10 thì nghĩ đóng, còn nợ lại 20 phần hụi chết với số tiền 20.000.000 đồng; dây hụi thứ tư loại hụi 500.000 đồng/ 1 tháng, mở hụi ngày 15/01/2016, dây hụi mở có 27 phần hụi, bà N có tham gia chơi 01 phần hụi và đã hốt ở kỳ mở hụi thứ 04, còn nợ lại 08 phần hụi chết với số tiền 4.000.000 đồng và dây hụi thứ năm loại hụi 500.000 đồng/ 1 tháng, mở hụi ngày 20/01/2016, dây hụi mở có 31 phần hụi, bà N có tham gia chơi 01 phần hụi và đã hốt ở kỳ mở hụi thứ 05, còn nợ lại 04 phần hụi chết với số tiền 2.000.00 đồng; hiện các dây hụi này đã mãm hụi. Nay chị C yêu cầu bà N và ông H trả số tiền hụi còn tH là 61.000.000 đồng. Đến ngày 17/8/2020 chị C có đơn yêu cầu rút lại yêu cầu khởi kiện đối với ông P V H.

Bị đơn bà M B N có lời khai trình bày:

Bà thừa nhận có tham gia 05 dây hụi do chị C làm chủ hụi N chị C đã trình bày, hiện tại bà N thừa nhận còn thiếu chị C số tiền hụi là 61.000.000 đồng, việc bà chơi hụi với chị C chồng bà ông H không biết, do ông H thường xuyên đi làm không có ở nhà. Nay bà đồng trả cho chị C trả số tiền hụi còn thiếu là 61.000.000 đồng.

Bị đơn ông P V H có lời khai trình bày: Việc vợ ông bà M B N chơi hụi với chị N T C N thế nào thì ông không biết, do ông thường xuyên đi làm ăn. Nay ông không đồng ý theo yêu cầu của chị C.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Về thủ tục tố tụng, quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ yêu cầu của chị C đối với ông H; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N T C, buộc bà M B N có nghĩa vụ trả cho chị C số tiền hụi là 61.000.000 đồng. Áp dụng Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015 trong giai đoạn thi hành án. Về án phí: buộc bà N phải nộp theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị N T C có đơn yêu cầu Toà án giải quyết buộc bà M B N trả tiền nợ hụi. Bà N có địa chỉ cư trú tại huyện PL. Căn cứ vào Điều 26, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện PL. Về phía bà N, ông H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do nên việc xét xử vắng mặt bà N, ông H là phù hợp với quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Theo đơn khởi kiện, lời khai chị N T C yêu cầu bà M B N và ông P V H trả tiền nợ hụi còn tH số tiền 61.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Về phía bà M B N thừa nhận có tH chị C số tiền hụi là 61.000.000 đồng N chị C yêu cầu, Nng cho rằng đây là nợ hụi riêng của bà N tH chị C chứ ông H chồng bà không biết.

[3] Tại đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện ghi ngày 17/8/2020 chị N T C xin rút lại yêu cầu khởi kiện đối với ông P V H; Xét thấy, việc rút yêu cầu khởi kiện của chị C là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ yêu cầu của chị C đối với ông H.

[4] Đối với yêu cầu khởi kiện của chị C đòi bà N trả tiền hụi số tiền 61.000.000 đồng. Tại lời khai ngày 12/3/2020 bà N thừa nhận còn thiếu chị C số tiền nợ hụi 61.000.000 đồng, đồng ý trả cho chị C số tiền này; Hội đồng xét xử thấy rằng lời thừa nhận của bà N là những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự, nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị C kiện bà N đòi tiền hụi còn tH số tiền 61.000.000 đồng.

[5] Về án phí: Buộc bà M B N phải chịu án phí giá ngạch theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, điểm c khoản 1 Điều 217 và 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 471 và 280 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng áp phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Đình chỉ việc giải quyết vụ án đối với yêu cầu của chị N T C kiện đòi ông P V H trả tiền hụi.

2/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N T C đòi bà M B N trả tiền hụi còn tH số tiền 61.000.000 đ (Sáu mươi mốt triệu đồng).

Buộc bà M B N có nghĩa vụ trả tiền hụi còn thiếu cho chị N T C số tiền 61.000.000 đ (Sáu mươi mốt triệu đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

2/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bà M B N phải nộp số tiền 3.050.000 đ (Ba triệu không trăm năm chục nghìn đồng); chị N T C đã tạm ứng số tiền 1.525.000 đ (Một triệu năm trăm hai mươi lăm nghìn đồng) tại biên lai số 0004582 ngày 07 tháng 01 năm 2020 được hoàn lại tại C cục thi hành án dân sự huyện PL.

Án xử sơ thẩm công khai các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết hợp lệ Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2020/DS-ST ngày 20/08/2020 về tranh chấp hụi

Số hiệu:18/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;