Bản án 18/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH TN

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 4 năm 2019 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện ĐH, tỉnh TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Hải N, tên gọi khác: Không; sinh ngày 20/11/1976; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm L, xã HT, huyện ĐH, tỉnh TN; Quốc tịch: ViệtN; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Lê Tất Đ, sinh năm 1948, con bà: Đào Thị C, sinh năm 1954; có vợ là Đồng Thị Hương, sinh năm 1983 (đã ly hôn); có 01 con chung sinh năm 2003; Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2018 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Tất Đổng, sinh năm 1948 - Có mặt.

Trú tại: Xóm Luông, xã Hóa Thượng, huyện ĐH, tỉnh TN.

* Người chứng kiến: Ông Vũ Đình Nguyên, sinh năm 1947 – Vắng mặt

Trú tại: Xóm Vải, xã Hóa Thượng, huyện ĐH, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1 Vào hồi 12 giờ ngày 17/12/2018, Tổ công tác của Công an huyện ĐH, tỉnh TN đang thực hiện nhiệm vụ tại khu vực xóm Luông, xã Hóa Thượng, huyện ĐH thì phát hiện một người đàn ông đang điều khiển xe đạp có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy, tổ công tác đã tiếp cận và yêu cầu người đàn ông này dừng lại để kiểm tra. Người đàn ông chấp hành và khai họ tên là: Lê Hải N, sinh năm: 1976, trú tại: Xóm Luông, xã Hóa Thượng, huyện ĐH. Quá trình kiểm tra Lê Hải N tự giác lấy từ trong túi áo ngực bên phảiN đang mặc ra 02 gói giấy bạc màu vàng bên trong đều chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine giao nộp cho tổ công tác.N khai nhận là Heroine củaN mua về để sử dụng cho bản thân.Tiến hành kiểm tra đối vớiN, tổ công tác còn thu giữ củaN 01 điện thoại di động nhãn hiệu MOBELL vỏ màu đen đã cũ và 01 chiếc xe đạp mini sơn màu đỏ đã cũ. Sau đó tổ công tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ĐH tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Hải N, kết quả không thu giữ được gì liên quan đến hành vi phạm tội.

Tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ củaN có khối lượng là: 0,185 gam (không phẩy một trăm tám mươi lăm gam) và lấy toàn bộ mẫu gửi giám định ký hiệu A1.

Tại bản kết kết luận giám định số: 7124/C09 - TT2 ngày 26/12/2018 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Số chất bột màu trắng trong mẫu niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy; loại: Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Hải N đã khai nhận, bản thân là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 11 giờ ngày 17/12/2018,N đi xe đạp từ nhà tại Xóm Luông, xã Hóa Thượng, huyện ĐH đến khu vực Cầu Gia Bẩy thuộc phường Đồng Bẩm, thành phố TN, tỉnh TN với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Đến nơi thìN gặp một người đàn ông lạ mặt không biết tên và địa chỉ,N hỏi mua của người đàn ông này 200.000đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền ma túy. Sau khi mua được Heroine,N đạp xe về nhà. KhiN về đến khu vực đường dân sinh thuộc Xóm Luông, xã Hóa Thượng, huyện ĐH thì gặp tổ công tác của Công an huyện ĐH đang làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng vụ án gồm: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, ký hiệu: LK và 7124/C09-TT2; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell vỏ mầu đen ( niêm phong trong phong bì còn nguyên vẹn, ký hiệu ĐT); 01 chiếc xe đạp mini mầu sơn đỏ, xe đã qua sử dụng.

Hiện số vật chứng trên đang được lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐH chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 21/CT-VKSĐH, ngày 26/3/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐH, tỉnh TN đã truy tố Lê Hải N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng. Bị cáo xác định mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân, không có ý định bán lại kiếm lời và trước đó bị cáo cũng chưa bán ma túy cho ai.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đổng đề nghị Hội đồng xét xử trả lại ông chiếc xe đạp mini vì đây là tài sản chung của gia đình ông, bị cáo không đóng góp gì vào việc mua chiếc xe này và ông cũng không biết bị cáo sử dụng xe vào việc vi phạm pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐH tham gia phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân của bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Hải N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng:

- Điểm c khoản 1 Điều 249 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Hải N từ 18 đến 24 tháng tï. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu số LK và 7124/C09-TT2.

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell vỏ mầu đen ( niêm phong trong phong bì còn nguyên vẹn, ký hiệu ĐT);

+ Trả cho ông Lê Tất Đổng 01 chiếc xe đạp mini mầu sơn đỏ, xe đã qua sử dụng.

- Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Lê Hải N phải chịu 200.000đ đồng án phí Hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, trong phần lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Vào hồi 12 giờ ngày 17/12/2018, tại khu vực xóm Luông, xã Hóa Thượng, huyện Đông Hỷ, tỉnh TN, tổ công tác Công an huyện ĐH đã bắt quả tang Lê Hải N đang có hành vi tàng trữ 0,185 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang và thu giữ một số vật chứng liên quan.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lơi khai nhâ n tôi cua bi cao phu hơp vơi biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, lơi khai cua bi cao tai cơ quan điêu tra , phù hợp vơi lơi khai cua người làm chứng , vật chứng đã thu giữ, bản kêt luân giam đinh v à những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Hôi đông xet xư thấy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Ni dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển ..., thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” ...

c) Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là đối tượng nghiện chất ma túy.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, bố đẻ bị cáo là ông Lê Tất Đổng được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó Hội đồng xét xử xét sẽ xem xét lên một mức án phù hợp với hành vi phạm tội và nhân thân các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần buộc cách ly bị cáo một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng và hình phạt đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân không có mục đích bán để kiếm lời, mặt khác bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3]. Vật chứng của vụ án:

- Đối với 02 phong bì niêm phong kí hiệu A1 và 7124/C09-TT2 (bên trong có chứa vỏ bì và số Heroine còn lại sau giám định) là vật chứng của vụ án không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tich thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc điện thoại Mobell thu giữ của bị cáo, bị cáo khai dùng để liên lạc hàng ngày, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử trả cho bị cáo quản lý, sử dụng.

- Đối với chiếc xe đạp mini thu giữ khi bắt quả tang, bị cáo khai chiếc xe là của bố bị cáo ông Lê Tất Đổng, bị cáo lấy xe đi ông Đổng không biết. Mặt khác, ông Lê Tất Đổng khai ông không biếtN lấy xe của ông đi mua ma túy, ông đề nghị được trả lại chiếc xe làm phương tiện đi lại. Xét đề nghị của bị cáo và ông Đổng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe đạp mini cho ông Lê Tất Đổng quản lý, sử dụng.

[4] Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp sung quỹ Nhà nước, theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[5]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, bị cáo Lê Hải N khai mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi không rõ lai lịch, địa chỉ tại khu vực đầu cầu Gia Bảy thuộc xóm Đồng Bẩm, thành phố TN, tỉnh TN. Do không xác định được lai lịch địa chỉ của người đàn ông trên nên cơ quan cảnh sát điều tra không có đủ cơ sở để điều tra, làm rõ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Lê Hải N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Lê Hải N 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2018. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu LK và 7124/C09-TT2.

- Trả cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell vỏ mầu đen ( niêm phong trong phong bì còn nguyên vẹn, ký hiệu ĐT).

- Trả cho ông Lê Tất Đổng 01 chiếc xe đạp mini mầu sơn đỏ, xe đã qua sử dụng.

(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của chi cục thi hành án huyện ĐH. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/4/2019 giữa cơ quan Công an huyện ĐH với Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐH).

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Lê Hải N phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;