Bản án 18/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 09/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Tòa án nhân dân thành phố Phúc Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 03 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Tá C, sinh năm 1992 tại huyện Đ, tỉnh Thanh Hóa; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: không; con ông Phạm Tá Đ (đã chết) và con bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1962; có vợ và 01 con; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 07/5/2013, bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 112 ngày07/5/2013). Đi chấp hành án về địa phương ngày 12/9/2013. Kết quả xác minh thi hành án xác định đã chấp hành xong án phí ngày 26/3/2018 (biên lai số 5001 ngày 26/3/2018).

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/12/2018 đến nay, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Vĩnh Phúc “có mặt”.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1997 “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 15/12/2018, Anh Nguyễn Văn H là bạn C điều khiển xe mô tô BKS 88Hx-xxx.xx trở C đi chơi ở khu vực phường X, thành phố P. Trên đường đi H có gọi điện thoại cho bạn là Chu Dung T, sinh năm  2002 ở xã T, huyện M, thành phố Hà Nội để rủ đi chơi, thì T nói đang ở khu vực tổ dân phố Y, phường X, do vậy H và C cùng nhau đến gặp T đang đứng chơi cùng hai người nam giới là bạn mới quen của T. Quá trình nói chuyện với T cùng hai người bạn mới quen của T, thì H có việc rồi đi về phòng trọ. Trong khi nói chuyện C biết bạn của T cũng sử dụng ma túy, người đàn ông đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Way rủ C đi mua ma túy về để cùng sử dụng, C đồng ý. Người này chở C đến khu vực trước cổng trường Đại học S thuộc phường X, thành phố P thì bảo xuống xe đứng chờ để người này đi mua ma túy, khoảng 15 phút sau thì quay nói là đã mua được ma túy và chở C đến  chỗ T cùng bạn đang đứng chơi. Trên đường đi đến khu vực tổ dân phố Y, phường X, thành phố P thì người đàn ông này đưa cho C 01 vỏ bao thuốc là loại Vinataba bên trong có ma túy đá và bảo C đi đến chỗ T và bạn để người này đi lấy coóng (dụng cụ) về để sử dụng ma túy, C đồng ý xuống xe, khi đang trên đường (đi bộ) đến chỗ anh T đứng thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật chứng.

Việc thu giữ gồm: Thu tại lòng bàn tay phải của C 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba màu vàng, bên trong có chứa 01 túi nilon màu trắng chứa các tinh thể dạng đá bên trong, C tự khai nhận đó là ma túy đá của C dùng để sử dụng, được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đã cũ và 01 thẻ căn cước công dân mang tên Phạm Tá C.

Tại Bản kết luận giám định số 1915 ngày 20/12/2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định và kết luận: “Tinh thể dạng đá của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng là 0,6352 gam, loại Methamphetamine”. Cơ quan giám định hoàn lại A1= 0,4438 gam cùng toàn bộ bao gói.

Tại Cáo trạng số 17/CT - VKSTPPY ngày 08 tháng 03 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên truy tố Phạm Tá C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Phạm Tá C khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên, thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Tại phiên toà Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo: Giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng đối với bị cáo Phạm Tá C; sau khi đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo C từ  01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16 tháng 12 năm 2019, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại gì, đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến gì về các hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà Phạm Tá C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như: lời khai của người làm chứng; biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 16 tháng 12 năm 2018; phù hợp với vật chứng thu giữ được. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 16/12/2018 tại khu vực tổ dân phố Y, phường X, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc, Phạm Tá C có hành vi tàng trữ trái phép 0,6352 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi nêu trên của Phạm Tá C đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc truy tố bị cáo theo Cáo trạng số: 17/CT - VKSTPPY ngày 08 tháng 03 năm 2019 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [2] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính coi thường pháp luật, đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 là thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải. Trước khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Vì vậy cần xử lý nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại trại giam với mức án như Viện kiểm sát đề nghị mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa và giáo dục chung, cũng như giúp bị cáo cải tạo thành người công dân tốt.

[4] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra xác minh ngày 24/01/2019 và tại phiên tòa làm rõ bị cáo không có tài sản, không có nghề nghiệp, thu nhập. Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng. Vì vậy, không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

 [5] Đối với hai đối tượng nam giới là bạn của anh T là người đi xe mô tô nhãn hiệu Exciter và Honda Wave, xác định là hai người bạn mới quen của anh T, bản thân anh T không biết họ ở đâu, làm gì, cơ quan điều tra đã  xác minh tại phường X, thành phố P nhưng chưa xác định được, tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với Anh Nguyễn Văn H và anh Chu Dung T, không biết, không tham gia việc mua bán, tàng trữ, sử dụng ma túy cùng Phan Tá C ngày 16/12/2018, nên không đề cập việc xử lý.

[6] Về vật chứng vụ án: Cần tịch thu tiêu huỷ bao gói hoàn trả sau giám định: A1= 0,4438 gam. Trả lại cho C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstelmàu đen đã cũ và 01 thẻ căn cước công dân mang tên Phạm Tá C nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

 [7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành

phố Phúc Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [8] Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Tá C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Phạm Tá C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Phạm Tá C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 16 tháng 12 năm 2018.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy bao gói hoàn lại sau giám định ký hiệu A1= 0,4438 gam. Trả lại cho C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đã cũ và 01 thẻ căn cước công dân mang tên Phạm Tá C nhưng tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đã cũ để đảm bảo thi hành án (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 11 tháng 3 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phúc Yên).

Căn  cứ  Điều 136  Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;  Nghị  quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Phạm Tá C phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;