Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 17/07/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 18/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/07/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 17/7/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 65/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/6/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26/6/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:Đặng Thị Đ, sinh năm: 1981; Nghề nghiệp: Kế toán; Nơi đăng ký HKTT: Tổ 14, phường M, quận N, TP. Đà Nẵng. Chỗ ở hiện tại: Số 12, đường Nam Thọ 4, phường T, quận S, TP. Đà Nẵng; có mặt.

2. Bị đơn: Ông Phan C, sinh năm: 1975; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi đăng ký HKTT: Tổ 38 phường T, quận T, TP. Đà Nẵng. Chỗ ở hiện tại: Số 12, đường Nam Thọ 4, phường T, quận S, TP. Đà Nẵng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tại bản tự khai và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Đặng Thị Đ trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Đặng Thị Đ và ông Phan C kết hôn vào năm 2012. Hôn nhân tự nguyện, có thời gian tìm hiểu nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng. Sau khi kết hôn, vợ chồng ông, bà chung sống tại địa chỉ: Số 12, đường Nam Thọ 4, phường T, quận S, TP. Đà Nẵng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vả, to tiếng với nhau. Năm 2017 bà Đặng Thị Đ đã nộp đơn khởi kiện ly hôn đối với ông Phan C đến Tòa án nhân dân quận Sơn Trà nhưng sau đó rút lại đơn với mong muốn tạo cơ hội hàn gắn tình cảm gia đình tuy nhiên từ đó đến nay tình trạng mâu thuẫn vẫn không được cải thiện, đời sống hôn nhân ngày càng trầm trọng. Hiện nay tuy vợ chồng bà Đ, ông C ở chung trong một nhà nhưng thân ai nấy lo, phần ai nấy sống. Nay xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm của bà đối với ông Phan C không còn, do đó bà xin được ly hôn với ông Phan C.

- Về quan hệ con chung: Bà Đặng Thị Đ xác định bà và ông Phan C có 01 con chung là: Phan Phúc H, sinh ngày: 09/9/2013. Ly hôn, bà Đặng Thị Đ có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con Phan Phúc H cho đến khi con Phan Phúc H đủ 18 tuổi. Bà Đặng Thị Đ không yêu cầu ông Phan C phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về quan hệ tài sản chung: Bà Đặng Thị Đ xác định không có.

- Về nợ chung: Bà Đặng Thị Đ xác định không có.

* Đối với bị đơn – ông Phan C: Mặc dù đã được Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thông báo Thụ lý, về các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Phan C đều vắng mặt và không có ý kiến phản hồi. Vì vậy Toà án không có cơ sở để xem xét yêu cầu và nguyện vọng của ông C.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Theo đó, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng pháp luật, riêng bị đơn ông Phan C không chấp hành triệu tập của Tòa án, chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đặng Thị Đ đối với ông Phan C.

- Về quan hệ con chung: Áp dụng điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung Phan Phúc H, sinh ngày: 09/9/2013 cho bà Đặng Thị Đ trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung Phan Phúc H đủ 18 tuổi. Ông Phan C không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Đặng Thị Đ xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung. Tại phiên tòa ông Phan C vắng mặt nên để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết về tài sản chung và nợ chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục: Đơn khởi kiện của bà Đặng Thị Đ nộp tại Tòa án là đúng thủ tục và thẩm quyền được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Phan C là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng ông Phan C vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Bà Đặng Thị Đ và ông Phan C đăng ký kết hôn vào năm 2012 tại UBND phường M, quận N, TP. Đà Nẵng theo giấy chứng nhận kết hôn số 157, quyển số 01/2012 cấp ngày 15/10/2012. Hôn nhân tự nguyện, có thời gian tìm hiểu nhau. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi kết hôn vợ chồng ông, bà về sống với nhau tại địa chỉ: Số 12, đường Nam Thọ 4, phường T, quận S, TP. Đà Nẵng. Vợ chồng ông, bà chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vả, to tiếng với nhau. Năm 2017 bà Đặng Thị Đ đã nộp đơn khởi kiện ly hôn đối với ông Phan C đến Tòa án nhân dân quận Sơn Trà nhưng sau đó rút lại đơn với mong muốn tạo cơ hội hàn gắn tình cảm gia đình tuy nhiên từ đó đến nay tình trạng mâu thuẫn vẫn không được cải thiện, đời sống hôn nhân ngày càng trầm trọng. Hiện nay tuy vợ chồng bà Đ, ông C ở chung trong một nhà nhưng thân ai nấy lo, phần ai nấy sống. Tại phiên tòa hôm nay, bà Đặng Thị Đ xác định không còn yêu thương ông Phan C nữa, bà xin được ly hôn.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Đặng Thị Đ đối với ông Phan C thì thấy: Hạnh phúc gia đình chỉ thật sự có được dựa trên sự yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, thế nhưng giữa bà Đặng Thị Đ và ông Phan C lại không làm được điều này. Khi mâu thuẫn xảy ra hai bên không tìm được cách giải quyết đề hàn gắn và xây dựng gia đình. Về phía ông Phan C, Tòa án đã tạo điều kiện nhiều lần để vợ chồng hòa giải mâu thuẫn,trở về đoàn tụ chung sống với nhau nhưng ông Phan C đều vắng mặt tại các phiên hòa giải. Việc này cho thấy ông Phan C không tôn trọng Tòa án và thờ ơ với việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, không có thiện chí níu kéo mối quan hệ hôn nhân của mình. Xét thấy, mâu thuẫn của bà Đặng Thị Đ và ông Phan C đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Đặng Thị Đ đối với ông Phan C là phù hợp quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Bà Đặng Thị Đ xác định bà và ông Phan C có 01 con chung là: Phan Phúc H, sinh ngày: 09/9/2013. Ly hôn, bà Đặng Thị Đ có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con Phan Phúc H cho đến khi con Phan Phúc H đủ 18 tuổi. Bà Đặng Thị Đ không yêu cầu ông Phan C phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét yêu cầu về nuôi con chung của bà Đặng Thị Đ thì thấy: Hiện tại con đang còn nhỏ, cần sự chăm sóc của người mẹ; mặt khác, tại phiên tòa bà Đ xác định bà có đủ điều kiện kinh tế và chỗ ở để nuôi dạy con phát triển đầy đủ và toàn diện. Do vậy, cần áp dụng Điều 81,82, 83 Luật hôn nhân gia đình, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của bà Đặng Thị Đ. Do bà Đ không yêu cầu ông Phan C phải cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Đặng Thị Đ xác định vợ chồng bà không có tài sản chung và nợ chung. Do ông Phan C vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến của ông về tài sản chung và nợ chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này, nếu có tranh chấp các đương sự có liên quan có thể khởi kiện bằng vụ án khác.

[5] Án phí HNGĐ sơ thẩm: 300.000 đồng bà Đặng Thị Đ phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thườn vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Ly hôn " của bà Đặng Thị Đ đối với ông Phan C.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Đặng Thị Đ được ly hôn ông Phan C.

Do chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Đặng Thị Đ đối với ông Phan C nên giấy chứng nhận kết hôn số 157, quyển số 01/2012 do UBND phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng cấp cho bà Đặng Thị Đ và ông Phan C ngày 15/10/2012 không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Phan Phúc H, sinh ngày: 09/9/2013 cho bà Đặng Thị Đ trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung Phan Phúc H đủ 18 tuổi, ông Phan C không phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Khi vì cần thiết lợi ích con chung, các bên đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con chung.

2. Án phí HNGĐ-ST 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) bà Đặng Thị Đ phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)
bà Đặng Thị Đ đã nộp tại biên lai thu số 0007777 ngày 23/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Bà Đặng Thị Đ đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự. người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 17/07/2019 về ly hôn

Số hiệu:18/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;