Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 12/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 18/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 12 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 163/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, về nuôi con, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 251/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Xuân Đ; nơi cư trú: Số 7/201 T.N.H, phường T.N.H, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; có mặt

- Bị đơn: Chị Đỗ Thị P; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 7/201 T.N.H, phường T.N.H, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành án tại: Trại giam N.L, huyện T.Y, tỉnh B.G; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 01/4/2019 cùng lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Trần Xuân Đ trình bày: Anh xây dựng gia đình với chị Đỗ Thị P từ năm 1998, do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, nhưng đến năm 2001 mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T.N.H, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ngày 05/11/2001. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận được khoảng 03 năm đầu, sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, cách sống; ban đầu chỉ là những mâu thuẫn nhỏ, song càng ngày mâu thuẫn càng lớn mặc dù đã được gia đình, bạn bè khuyên giải nhiều song không có kết quả. Do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên chúng tôi đã sống ly thân nhau gần 18 năm nay (năm 2002), không ai quan tâm đến ai về tình cảm cũng như về kinh tế. Đến năm 2012 chị P bị Tòa án nhân dân thành phố Hải phòng xử phạt 11năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” hiện đang phải chấp hành tại Trại giam N.L, huyện T.Y, tỉnh B.G. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ nên anh Đ đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đỗ Thị P.

Về nuôi con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Đức K, sinh ngày 14/10/199A. Hiện cháu đã đến tuổi trưởng thành nên không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.

Về chia tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, anh Đ không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa chị Đỗ Thị P vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành ủy thác thu thập chứng cứ cho Tòa án nhân dân huyện T.Y, tỉnh B.G để lấy lời khai của chị P tại Trại giam N.L, huyện T.Y, tỉnh B.G, chị P trình bày: Chị xác nhận mâu thuẫn vợ chồng giữa chị và anh Đ đã trầm trọng và không có khả năng đoàn tụ như anh Đ trình bày là đúng. Nay anh Đ có đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận Lê Chân giải quyết ly hôn đối với chị, chị P nhất trí ly hôn và đề nghị Tòa án giải quyết.

Về con chung: Chị P xác nhận vợ chồng có 01 con chung là Trần Đức K, sinh ngày 14/10/199A. Hiện cháu đã đến tuổi trưởng thành nên không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.

Về chia tài sản: Chị P trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, anh Đ giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với chị Đỗ Thị P cũng như những quan điểm về con chung và tài sản chung đã trình bày ở trên.

Kiểm sát viên tham gia phát biểu ý kiến tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về trình tự thủ tục tố tụng tại phiên tòa; nguyên đơn; bị đơn chấp hành đúng các quy định về tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 51, 56 Luật HNGĐ năm 2014; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho anh Trần Xuân Đ được ly hôn chị Đỗ Thị P; về con chung: Anh Đ và chị P có 01 con chung là Trần Đức K, sinh ngày 14/10/199A (đã đến tuổi trưởng thành) nên không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết; về chia tài sản: Hai bên không yêu cầu tòa án giải quyết, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Về tố tụng: Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và đơn xin xác nhận tạm trú thể hiện chị Đỗ Thị P có đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 7/201 T.N.H, phường T.N.H, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành án tại: Trại giam N.L, huyện T.Y, tỉnh B.G. Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự, vụ án khởi kiện xin ly hôn giữa anh Trần Xuân Đ và chị Đỗ Thị P thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[2] Tại phiên tòa, bị đơn là chị Đỗ Thị P vắng mặt, song chị P có đơn xin xét xử vắng mặt, đơn xin xét xử vắng mặt của chi P là hợp lệ. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Đỗ Thị P.

[3] Về hôn nhân: Anh Trần Xuân Đ, sinh năm 197B và chị Đỗ Thị P, sinh năm 197C kết hôn với nhau năm 1998, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T.N.H, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ngày 05/11/2001. Quan hệ hôn nhân giữa anh Đ và chị P là hợp pháp.

[4] Quá trình vợ chồng chung sống cho đến nay cả hai bên đều xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ và cùng đề nghị Tòa án giải quyết cho hai người được ly hôn. Qua điều tra xác minh cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Đ và chị P kéo dài nhiều năm nay, hai bên sống ly thân nhau, không ai quan tâm đến ai về tình cảm cũng như kinh tế. Hiện chi P đang phải chấp hành án (11 năm 06 tháng tù) tại Trại giam N.L, huyện T.Y, tỉnh B.G. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa anh Đ và chị P trên thực tế không còn tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được, bởi vậy yêu cầu của anh Đ được xin được ly hôn với chi P là hoàn toàn chính đáng, phù hợp với thực tế, phù hợp với qui định tại các điều 51 và 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về nuôi con chung: Anh Đ và chị P cùng xác nhận vợ chồng có 01 con chung là Trần Đức Kh, sinh ngày 14/10/199A. Hiện cháu đã đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[6] Về chia tài sản: Anh Đ và chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét việc phân chia tài sản chung giữa hai bên. [7] Về án phí: Anh Đ phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 1 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh anh Trần Xuân Đ và chị Đỗ Thị P.

- Về án phí: Anh Trần Xuân Đ phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được tình trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng theo biên lai thu tiền số 0013111 ngày 09 tháng 4 năm 2019. Anh Đ đã nộp đủ tiền án phí.

- Về quyền kháng cáo: Anh Đ có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị P có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 12/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:18/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;