Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 06/05/2019 về tranh chấp hôn nhân, gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, BẮC GIANG

BẢN ÁN 18/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH

Ngày 06/5/2019 tại trụ sở toà án nhân dân huyện Lạng Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 52/2019/TLST-HNGĐ ngày 20/02/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05/4/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 32b/2019/QĐST ngày 19/4/2019, giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị N, sinh năm 1997 – (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn T, xã An Hà, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

- Bị đơn: Anh Hoàng Viết C, sinh năm 1986 – (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn T, xã An Hà, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện tranh chấp hôn nhân gia đình ghi ngày 11/02/2019 và bản tự khai tiếp theo nguyên đơn chị Hoàng Thị N trình bày: Chị và anh Hoàng Viết C kết hôn ngày 27/5/2016, trước khi cưới có tìm hiểu thỏa thuận và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Văn, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi cưới vợ chồng chị về chung sống với nhau tại gia đình anh C ở xã An Hà, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến việc chị làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn giữa chị với anh C là do trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày do tính tình vợ chồng không hợp, vợ chồng thường xuyên bất đồng về quan điểm nên hay xảy ra cãi vã nhau. Do thường xuyên mâu thuẫn nên vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 3/2018 và cắt đứt mọi quan hệ từ đó cho đến nay.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Hoàng Viết C không còn nên chị thiết tha đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với anh C.

- Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung là Hoàng Viết Đ, sinh ngày 08/11/2017. Hiện tại con phát triển bình thường và đang do chị nuôi dưỡng. Nay vợ chồng ly hôn nguyện vọng của chị xin tiếp tục được nuôi con chung, không yêu cầu anh Hoàng Viết C phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản, công nợ, ruộn đến ruộng canh tác chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trước phiên tòa hôm nay ng canh tác: Vợ chồng chị không có tài sản chung và cũng không có công nợ chung, không vay nợ ai, không liên quachị Hoàng Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu trên.

+ Tại biên bản lấy lời khai anh Hoàng Viết C của Tòa án ghi ngày 25/02/2019 bị đơn anh Hoàng Viết C trình bày: Anh và chị Hoàng Thị N trước khi kết hôn có được tìm hiểu thỏa thuận và có tổ chức lễ cưới theo phong tục cổ truyền, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Văn, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn ngày 27/5/2016. Nay vợ chồng có một con chung.

Sau khi cưới, chị N về gia đình anh ở xã An Hà, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang chung sống, thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận, đến khoảng tháng 4/2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày tính tình không hợp nên vợ chồng anh có xảy ra cãi nhau. Tháng 5/2018 chị N bỏ về mẹ đẻ ở. Vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, anh có gọi điện cho chị N để bảo chị N trở về chung sống cùng anh nhưng chị N không về. Nay phía chị N xin ly hôn, anh xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, nên anh không đồng ý ly hôn với chị N.

- Về con chung: Vợ chồng anh có một con chung là Hoàng Viết Đ, sinh ngày 08/11/2017. Hiện tại con phát triển bình thường và đang do chị N nuôi dưỡng. Nay nếu vợ chồng anh phải ly hôn thì anh đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

- Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Vợ chồng anh chưa có tài sản chung gì, và cũng không có công nợ chung, không vay nợ ai, không có ruộng canh tác chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trước phiên tòa hôm nay, anh Hoàng Viết C vắng mặt.

+ Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

- Việc tuân theo pháp luật củaThẩm phán và HĐXX: Thẩm phán và thư ký trong quá trình giải quyết vụ án chấp hành đúng quy định của pháp luật. Thẩm phán xác định đúng mối quan hệ tranh chấp. Việc giao gửi các văn bản tố tụng và hồ sơ cho VKS nghiên cứu đầy đủ, đúng quy định; HĐXX thực hiện đúng quy định của pháp luật;

- Việc chấp hành pháp luật của ngƣời tham gia tố tụng: Các bên đương sự đều chấp hành đúng quy định của pháp luật; Bị đơn đã có lời khai xin phép được vắng mặt trong toàn bộ quá trình Tòa án giải quyết vụ án; Tại phiên tòa bị đơn Hoàng Viết C vắng mặt lần thứ hai.

- Về quan điểm đường lối giải quyết vụ án:

Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28; Điều 35; Điều 147; Khoản 1 Điểu 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 51; Điều 56 và Điều 58; khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Xử cho chị Hoàng Thị N được ly hôn với anh Hoàng Viết C.

Về con chung: Xử giao cho Chị Hoàng Thị N tiếp tục nuôi con chung là Hoàng Viết Đ, sinh ngày 08/11/2017. Chị N không yêu cầu anh Hoàng Viết C phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Về án phí: Chị Hoàng Thị N phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

- Những yêu cầu, kiến nghị khác: Không.

XÉT THẤY

- Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ các ý kiến của các bên đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị Hoàng Thị N và anh Hoàng Viết C kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận hạnh phúc đến khoảng tháng 4 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày tính tình không hợp, vợ chồng thường bất đồng về quan điểm nên không có sự quan tâm với nhau. Phía chị N xét thấy không còn tình cảm với anh C và làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C, quan điểm của anh C xét thấy vẫn còn tình cảm với chị N và không đồng ý ly hôn nhưng từ khi chị N làm đơn khởi kiện về việc ly hôn tại Tòa án thì phía anh C cũng không tìm biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng nên mục đích của hôn nhân không còn đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Tại phiên tòa hôm nay chị N vẫn thiết tha đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C và quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tại phiên tòa cũng đề nghị HĐXX giải quyết cho chị Hoàng Thị N được ly hôn với anh Hoàng Viết C. Do vậy cần chấp nhận việc xin ly hôn của chị Hoàng Thị N là phù với Điều 56 luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Về con chung: Vợ chồng chị N, anh C có một con là Hoàng Viết Đ, sinh ngày 08/11/2017. Hiện tại cháu phát triển bình thường và đang do chị N nuôi dưỡng chăm sóc. Phía chị N vẫn mong muốn xin được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh C phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. HĐXX xét cần tiếp tục giao con chung của vợ chồng cho chị N nuôi dưỡng vì cháu còn bé dưới 36 tháng tuổi và để đảm bảo ổn định cuộc sống và việc học tập của cháu, phía anh C có quyền thăm nom chăm sóc con chung mà không ai được cản trở, xét là phù hợp Điều 81; Điều 82 và Điều 83 luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[3] Về tài sản: Chị N, anh C đều xác nhận không có và không đề nghị Tòa án giải quyết do vậy HĐXX không xem xét.

[4] Về án phí: Chị Hoàng Thị N phải chịu 300.000 đồng tiền APDSST.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của BLTTDS.

Việc anh Hoàng Viết C vắng mặt tại phiên toà hôm nay nhưng đã được Tòa án tiến hành giao đầy đủ các thủ tục tố tụng đối với anh C. Do vậy quyền lợi của anh Hoàng Viết C đã được đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 147; Khoản 1 Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật HNGĐ. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Quan hệ vợ chồng: Xử cho chị Hoàng Thị N được ly hôn với anh Hoàng Viết C.

2/ Con chung: Xử giao cho chị Hoàng Thị N tiếp nuôi con chung là Hoàng Viết Đ, sinh ngày 08/11/2017. Chị N không yêu cầu anh C phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn anh Hoàng Viết C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3/ Án phí: Chị Hoàng Thị N phải phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Được khấu trừ 300.000 đồng đã nộp tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2018/0006946 ngày 20/02/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Báo cho đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có 15 ngày kháng cáo kể từ ngày nhận được tống đạt bản án vắng mặt hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 06/05/2019 về tranh chấp hôn nhân, gia đình

Số hiệu:18/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;