Bản án 18/2018/HS-ST ngày 11/05/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 18/2018/HS-ST NGÀY 11/05/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 11 tháng  5 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:14/2018/TLST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử 19/2018/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Cao Minh V, sinh năm 1979, tại tỉnh Tây Ninh.

Nơi cư trú: Ấp AT, xã AT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 3/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Cao Văn Đ và mẹ (vô danh); vợ: Phạm Thu A (đã ly hôn) và chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 01 ngày 14 tháng 12 năm 2017; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1991; cư trú tại: Ấp AT, xã AT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 13/7/2017, Cao Minh V dẫn theo một con chó đi ngang qua nhà anh Nguyễn Văn T tại khu vực ấp AT, xã AT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh, thì con chó của V và con chó của anh T cắn nhau nên giữa V và anh T, anhNguyễn Văn N (là em của anh T) xảy ra cãi vã, anh N dùng tay đánh trúng vào mặt V 01 cái thì được mọi người can ngăn. V điều khiển xe môtô chạy về nhà lấy 01 cây dao tự chế bằng kim loại dài 66cm (cán dao bằng gỗ dài 19cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 47cm) quay lại nhà anh T thì thấy anh T đang ngồi trên xích đu trước hàng ba nhà, V đi đến nơi anh T ngồi và dùng hai tay cầm cây dao chém từ trên xuống, anh T đưa hai tay lên đỡ thì bị lưỡi dao chém trúng vào hai tay gây thương tích; lúc này ông Nguyễn Văn D (là cha của anh T) chạy đến dùng hai tay ôm V lại nhưng V vẫn dùng dao chém tiếp 01 cái trúng vào tay trái của anh T. Cùng lúc có bà Nguyễn Thị H (là mẹ của anh T), chị Phạm Thị Hồng L (là vợ của anh T) và anh N từ trong nhà chạy ra phụ ông D dùng sợi dây vải dù trói tay, chân của V lại và giao cho Công an xã An Tịnh xử lý; riêng anh T được đưa đến Bệnh viện đa khoa khu vực Củ Chi điều trị đến ngày18/7/2017 thì xuất viện. Ngày 30/10/2017, anh T làm đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với Cao Minh V.

Tại Bản kết luận  giám định pháp y về thương tích số: 176/2017/TgT  ngày 20/9/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Tây Ninh, kết luận:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- 01 vết sẹo mặt sau cánh tay khuỷu tay phải, kích thước 23 x 01 cm, ảnh hưởng thẩm mỹ.

- 01 vết sẹo mặt trong 1/3 giữa cẳng tay trái, kích thước 15,5 x 0,5 cm, ảnh hưởng thẩm mỹ.

- 01 vết sẹo mặt ngoài vùng khuỷu tay trái, kích thước 8,2 x 0,2 cm.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn Văn T do thương tích gây nên hiện tại là12%”.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nêu trên. Về bồi thường thiệt hại, bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng và bị cáo đã nộp số tiền 10.000.000 đồng tại Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng để khắc phục hậu quả cho bị hại.

Tại phiên tòa, bị hại anh T yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 10.000.000 đồng và có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

Tại Cáo trạng số: 16/QĐ-KSĐT ngày 19/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng đã truy tố bị cáo Cao Minh V về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo V từ 02 đến 03 năm tù.

Về bồi thường thiệt hại:

Buộc bị cáo bồi thường thiệt hại cho bị cáo theo quy định pháp luật. Về xử lý vật chứng:

Đối với xe mô tô thu của bị cáo, xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội đề nghị trả lại bị cáo.

Đối với con dao tự chế dài 66cm là công cụ phạm tội nhưng không có giá trị sử dụng đề nghị tiêu hủy. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xử nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Vào ngày 13/7/2017, do mâu thuẫn về việc con chó của bị cáo và con chó của anh Nguyễn Văn T cắn nhau. Sau đó, giữa bị cáo và anh N (Bé) gây gỗ với nhau nên bị cáo V có hành vi dùng 01 cây dao dài 66cm là hung khí nguy hiểm chém 02 cái trúng vào khuỷu tay phải, cẳng tay trái và khuỷu tay trái của anh T gây thương tích với tỷ lệ thương tật 12%.

Xét lời khai của bị cáo phù hợp với những chứng cứ của vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với lời trình bày của những người tham gia tố tụng. Do đó đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội Cố ý gây thương tích. Trong vụ án này, Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo với hai tình tiết định khung  “Dùng hung khí nguy hiểm” và “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và bị cáo phải chịu hình phạt theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Mặc dù hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra vào ngày 13/7/2017 (trước ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực pháp luật) tuy nhiên so với khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định mức hình phạt nặng hơn so với khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, căn cứ Nghị quyết 41/2017/QH13 ngày 20/6/2017 áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo nên Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét thấy bị cáo xem thường sức khỏe của người khác, hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, bị cáo xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để có tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Khi quyết định hình phạt có cân nhắc đến các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Cụ thể:

Về tình tiết tặng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã nộp số tiền 10.000.000 đồng tại cơ quan thi hành án dân sự để khắc phục hậu quả và bị hại cũng có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đối với Nguyễn Văn D, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn N và Phạm Thị Hồng L, trong lúc bắt giữ V, những người này đã có hành vi dùng chân đá và dùng cây đánh vào người của V; hiện V có đơn từ chối giám định thương tích và không yêu cầu xử lý hình sự nên Công an huyện Trảng Bàng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với những người này về hành vi “Xâm phạm đến sức khỏe của người khác”.

Về bồi thường thiệt hại: Bị hại có yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 10.000.000 đồng. Trong đó, tiền nằm viện điều trị từ ngày 13-7-2017 đến ngày 18-7-2017 số tiền 7.222.000 đồng; tiền mua thuốc hết 2.778.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng; do đó, chấp nhận yêu cầu bị hại, bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng. Ghi nhận bị cáo đã nộp số tiền 10.000.000 đồng theo Biên lai số 0003473 ngày 11 tháng 5 năm 2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng.

Về vật chứng vụ án:

Đối với 01 xe mô tô loại Wave, màu sơn: Đỏ - đen, biển số: 70K3-2369 thu của bị cáo; xét thấy không liên quan đến vụ án cần tuyên trả lại bị cáo

Đối với 01 con dao tự chế dài 66cm, nặng 910gram bằng kim loại bị cáo dùng làm hung khí gây án cần tịch thu tiêu hủy; đối với 02 cây trúc và 01 sợi dây vải xét thấy không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cao Minh V phạm tội Cố ý gây thương tích.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Cao Minh V 02 (hai) năm tù, thời gian chấp hành án tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 604, 609 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 106 Bộ luật hình sự.

Về bồi thường thiệt hại: Bị cáo có nghĩa vụ bồi thường bị hại số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng. Ghi nhận bị cáo đã nộp số tiền 10.000.000 đồng theo Biên lai số 0003473 ngày 11 tháng 5 năm 2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự Tuyên trả lại bị cáo V: 01 xe mô tô loại Wave, màu sơn: đỏ, đen, biển số: 70K3-2369, số máy VTT1P52FMH095834, số khung: VTTWCH022TT095834

-Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 con dao tự chế dài 66cm, nặng 910gram, cán bằng gỗ dài 19cm có quấn nhựa màu đen, lưỡi dao bằng kim loại màu đen dài 47cm, nơi rộng nhất là 04cm; 01 cây trúc dài 01m69, đường kính 1,2cm; 01 cây trúc dài 01m54, đường kính 1,5cm; 01 sợi dây vải dù dài 02m22, đường kính 0,5cm, sợi dây vải dù có cột gúc với sợi vải, phần sợi vải dài 0m62.

Theo Biên bản giao nhận ngày 16 tháng 4 năm 2018.

Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Bị cáo Cao Minh V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn  đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 500.000 (năm trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, bị hại biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày toà tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2018/HS-ST ngày 11/05/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:18/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;