TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 18/2018/DSST-HNGĐ NGÀY 27/04/2018 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH N
Ngày 27 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 878/2017/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Thái Thị H, sinh năm 1991 (có mặt).
Trú tại: khối C, phường V, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
2. Bị đơn: Anh Lê Thanh N, sinh năm 1983 (vắng mặt).
Trú tại: số 02, ngõ 30B, đường H, khối C, phường V, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn đề ngày 27/11/2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là chị Thái Thị H trình bày: Chị kết hôn với anh Lê Thanh N trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND phường V, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An vào ngày 25/12/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng về sinh sống tại khối Cộng Hòa, phường V, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được 02 năm, đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, anh N không có trách nhiệm gì với gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã, xô xát nhau và không có tiếng nói chung. Việc vợ chồng mâu thuẫn đã được gia đình, khối xóm, chính quyền địa phường hòa giải nhiều lần nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 09/2017 cho đến nay không có trách nhiệm gì với nhau. Nay chị H thấy tình cảm không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể sống chung với nhau được nữa nên chị làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Thanh N.
Về nuôi con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên là Lê Hải Đ, sinh ngày 22/11/2015. Nay ly hôn, chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi trưởng thành. Nếu được nuôi con chị không yêu cầu anh N cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Về tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vợ chồng không có khoản nợ nào chung.
Anh Lê Thanh N vắng mặt tại phiên tòa. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh N nhưng anh N vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể lấy ý kiến và xem xét đến nguyện vọng của anh N được.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định pháp luật.
Về nội dung: Đề nghị áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 207, Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
1. Về Hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Thái Thị H và anh Lê Thanh N
2. Về nuôi con chung: Giao con chung Lê Hải Đ, sinh ngày 22/11/2015 cho chị Thái Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh N do chị H không yêu cầu.
3. Về án phí: Chị Thái Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền: Chị Thái Thị H khởi kiện xin ly hôn anh Lê Thanh N, cư trú tại khối C, phường V, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Về việc vắng mặt của bị đơn tại phiên tòa: Ngày 01/12/2017 Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An thụ lý vụ án ly hôn giữa nguyên đơn chị Thái Thị H, bị đơn anh Lê Thanh N. Sau khi thụ lý, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho anh N theo đúng quy định tại các Điều 196, 208, 220 của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh N đều vắng mặt không có lý do nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh N là phù hợp với quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: chị Thái Thị H kết hôn với anh Lê Thanh N trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND phường V, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An vào ngày 25 tháng 12 năm 2015. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh N là hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Xét quá trình chung sống giữa chị H và anh N thấy rằng: Sau khi kết hôn chị H và anh N chung sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, giữa vợ chồng không có tiếng nói chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã, xô xát nhau. Mâu thuẫn kéo dài, mặc dù đã được gia đình hai bên hòa giải nhiều lần nhưng không cải thiện được. Hiện chị H và anh N đã sống ly thân.
Như vậy có thể khẳng định tình trạng vợ chồng chị H, anh N đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh N.
[2.2] Về nuôi con chung: Quá trình chung sống, chị H và anh N có một con chung Lê Hải Đ, sinh ngày 22/11/2015. Ly hôn chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi trưởng thành. Xét anh N vắng mặt nên không thể lấy ý kiến, xem xét nguyện vọng của anh N. Nguyện vọng nuôi con chung của chị H là chính đáng, mặt khác cháu Lê Hải Đ hiện còn quá nhỏ, dưới 36 tháng tuổi, cần bàn tay chăm sóc của người mẹ hơn. Vì vậy căn cứ vào khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Lê Hải Đ cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do chị H không yêu cầu anh N cấp dưỡng nên tạm hoãn việc cấp dưỡng tiền nuôi con cho anh N.
[2.3] Về tài sản: Chị Thái Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[2.4] Về án phí: Chị Thái Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 97, Điều 147, khoản 1 Điều 207, Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBNVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, Xử:
1. Về Hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Thái Thị H và anh Lê Thanh N
2. Về nuôi con chung: Giao con chung tên là Lê Hải Đ, sinh ngày 22/11/2015 cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh N do chị H không yêu cầu.
Anh N có quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.
3. Về án phí: Chị Thái Thị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số 0000297 ngày 27 tháng 11 năm 2017 của Chi cục Thi ành án dân sự thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
4. Án xử công khai, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 18/2018/DSST-HNGĐ ngày 27/04/2018 về ly hôn giữa chị H và anh N
Số hiệu: | 18/2018/DSST-HNGĐ |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/04/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về