Bản án 181/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 181/2020/HS-ST NGÀY 04/11/2020 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 04 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 168/TLST-HS, ngày 14 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 163/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Lục Văn C(tên gọi khác: không), sinh năm 1996 tại Lạng Sơn; Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: thôn L, xã V, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lục Văn T, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị T (đã chết); Vợ, con: không có; Tiền án, tiền sự: không có; Bị cáo đầu thú, tạm giữ ngày 25/5/2020, chuyển tạm giam ngày 03/6/2020; Bị cáo hiện tạm giam tại trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Cháu Đỗ Thị L, sinh ngày 03/12/2005; Trú tại: thôn Đ, xã P, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. (có mặt tại phiên tòa) Người đại diện hợp pháp của cháu L: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1986 – là mẹ đẻ của cháu L; Đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn Đ, xã P, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; Nơi ở: thôn Đình Cả, xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. (Có mặt tại phiên tòa) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu L: Bà Hồ Thúy Sen là trợ giúp viên pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1986; Đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn Đ, xã P, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; Nơi ở: thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. (Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong tháng 02 năm 2020, C đến xã P làm thuê, sau đó C có quen biết và nảy sinh tình cảm với cháu Đỗ Thị L, sinh ngày 03/12/2005. Trong khoảng thời gian từ các ngày 28/4/2020, ngày 08/5/2020 và đến ngày 16/5/2020, C đã ba lần quan hệ tình dục (có sự thuận tình) với cháu L tại buồng tầng 1 nơi cháu L đang ở cùng với bà ngoại là bà Lương Thị C tại thôn Đ, xã P, Gia Lâm, Hà Nội. Khoảng 08 giờ ngày 19/5/2020, chị Nguyễn Thị N (là mẹ đẻ cháu L và là con gái bà Chiến) đến chơi thấy C đang nằm trong buồng tầng 1, chị Ninh cho rằng C quan hệ với cháu L dẫn đến việc L mang thai nên chửi C, C bỏ ra ngoài phòng khách cầm điếu cày hút thuốc, chị Ninh tiếp tục chửi, túm cổ áo C, C hất tay chị Ninh ra thì bà C vào can ngăn, sau đó C bỏ đi, còn chị Ninh đến Công an làm Đơn trình báo về việc Lục Văn C quan hệ với cháu L dẫn đến cháu L có thai khi cháu L chưa đủ 16 tuổi và việc chị bị C đánh gây thương tích.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tình dục số 507/TTPY, ngày 15/6/2020 của Trung tâm Pháp y Hà Nội kết luận: Kết luận của cháu Đỗ Thị L:

Toàn thân không có vết sây sát sưng nề, bầm tím, không rách da chảy máu. Vì vậy không có điểm tỷ L tổn hại sức khỏe.

Màng trinh rách cũ sau vị trí 7 giờ, không có vết rách mới, không bầm tím sây sát.

Xét nghiệm phát hiện dấu vết tinh dịch – PSA Card tại dịch âm đạo, dấu vết trên quần lót: Dương tính (+) Kết luận giám định ADN số HT91.20/PY-XN, ngày 01/6/2020 và số HT91.20.BS/PY-XN ngày 08/6/2020 của Viện Pháp Y Quân Đội: Dấu vết trên quần lót của nạn nhân Đỗ Thị L có ADN nhiễm sắc thể Y với nồng độ thấp, trùng khớp với ADN trên nhiễm sắc thể Y của Lục Văn Ctrên 04 locus gen phân tích được; Không phát hiện thấy ADN nhiễm sắc thể Y từ dấu vết trên tăm bông thấm dịch âm đạo của nạn nhân Đỗ Thị L.

Tại kết quả xét nghiệm HCG: Dương tính; Định lượng βHCG ngày 20/5/2020 của Bệnh viện Đa khoa Medlatec 3204.43 U/L và kết quả siêu âm ngày 19/5/2020 của Bệnh viện Đa khoa Đức Giang; Theo dõi thai nhỏ trong buồng tử cung. Hiện tại chưa xác định thai có phải của anh Lục Văn Chay không.

Đối với việc Lục Văn C dùng điếu cày đánh vào đầu và hai tay của chị Ninh: Căn cứ vào “Giấy chứng nhận thương tích” số 78/CN ngày 23/6/2020 của Giám đốc Bệnh viện đa khoa Đức Giang thể hiện chị Ninh có thương tích. Ngày 09/7/2020, Công an huyện Gia Lâm ra Quyết định trưng cầu giám định tỷ L phần trăm tổn hại sức khỏe của chị Nguyễn Thị N. Ngày 10/7/2020, chị Ninh có Đơn xin từ chối giám định thương tích và rút đơn trình báo, xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho C, không đề nghị xử lý hình sự với C và không yêu cầu bồi thường dân sự.

Tại cơ quan điều tra:

Lục Văn C đã thừa nhận có việc quan hệ tình dục với cháu L ba lần, tất cả các lần cả hai bên đều tự nguyện, không bị ép buộc. Cháu Đỗ Thị L cũng thừa nhận có quan hệ tình dục với C ba lần và đều tự nguyện, không bị ai ép buộc do hai bên có tình cảm yêu nhau.

Theo Phiếu kết quả chẩn đoán hình ảnh siêu âm sản phụ khoa ngày 19/5/2020 của bệnh viện Đa khoa Đức Giang, kết luận: theo dõi thai nhỏ trong buồng tử cung.

Ngày 17/8/2020, Công an huyện Gia Lâm ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 04 yêu cầu giám định bổ sung xác định thai nhi trong tử cung của cháu Đỗ Thị L có cùng huyết thống với cháu L và Lục Văn C không nhưng cháu L từ chối giám định.

Về trách nhiệm dân sự: Tại cơ quan Điều tra, ngày 10/7/2020, chị Ninh có đơn xin từ chối giám định thương tích, rút đơn trình báo, xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Lục Văn C nhưng chị Ninh yêu cầu C bồi thường 2.000.000 đồng tiền khám chữa vết thương.

Cháu Đỗ Thị L (do chị N là người đại diện hợp pháp) không yêu cầu Lục Văn C phải bồi thường dân sự.

Tại bản cáo trạng số 172/CT-VKSGL, ngày 13/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Lục Văn C về “Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” quy định tại điểm a,d khoản 2 Điều 145 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo Lục Văn C đã khai nhận về hành vi mà bị cáo đã thực hiện như đã khai nhận tại cơ quan điều tra. Đối với việc L có Thai: bị cáo khai bị cáo và L có quan hệ tình cảm với nhau nên việc L có thai là do quan hệ tình dục với bị cáo.

Bị hại Đỗ Thị L khẳng định thai trong tử cung là của Lục Văn C vì L chỉ quan hệ tình dục với C, không quan hệ với ai khác và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Người đại diện hợp pháp của cháu L là chị Nguyễn Thị N trình bày:

Đối với việc cháu L có thai: chị khẳng định việc cháu L có thai là do C đã quan hệ tình dục với cháu L mặc dù không có kết luận giám định về ADN giữa thai nhi với Lục Văn C theo kết quả khám và siêu âm thai ngày 14/9/2020 thì tuổi thai phù hợp với thời điểm C quan hệ tình dục với cháu L. Chị yêu cầu xử lý C theo đúng quy định định của pháp luật về hành vi C dã giao cấu nhiều lần với con chị là cháu L dẫn đến việc L có thai với C.

Đối với viêc C gây thương tích cho chị: Chị không yêu cầu xem xét trách nhiệm hình sự của Lục Văn C vì chị đã có Đơn xin từ chối giám định thương tích và rút đơn trình báo, xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho C, không đề nghị xử lý hình sự với C. Về việc chị yêu cầu C bồi thường dân sự 2.000.000 đồng tiền chị khám chữa vết thương, tại Tòa án, chị đã có đơn xin rút yêu cầu C phải bồi thường số tiền này. Tại phiên tòa chị giữ nguyên việc rút đơn yêu cầu bồi thường dân sự, chị không yêu cầu C bổi thường cho chị số tiền 2.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm trình bày luận tội, giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo Lục Văn C trên cơ sở xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong vụ án này, bị hại cũng có phần lỗi và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm a,d khoản 2 Điều 145; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ Luật hình sự, tuyên bố bị cáo Lục Văn C phạm “Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Đề nghị xử phạt bị cáo C từ 42 tháng đến 48 tháng tù. Thời hạn tù tính từ tạm giữ: 25/5/2020. Về trách nhiệm dân sự: không xem xét giải quyết.

Về vật chứng: tịch thu tiêu hủy một điếu cày Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu Đỗ Thị L trình bày: nhất trí về tội danh và khung hình phạt. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị cũng đã xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Tuy nhiên, trong vụ án này, bị cáo và bị hại có quan hệ yêu nhau, bị cáo là dân tộc thiểu số chỉ học hết lớp 6, sinh sống tại vùng đặc biệt khó khăn nên hiểu biết có phần hạn chế. Vì vậy đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà VKS đề nghị Người đại diện hợp pháp cho cháu L – bà Nguyễn Thị N đề nghị HĐXX xử lý bị cáo đúng quy định của pháp luật Đại diện Viện kiểm sát dân huyện Gia Lâm vẫn giữ nguyên quan điểm và mức hình phạt đã đề nghị đối với bị cáo.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử mở lượng khoan hồng, cho bị cáo một mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh và tình tiết định khung hình phạt:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, phù hợp với Biên bản thân dẫn, Bản kết luận giám định pháp y tình dục và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định: Lục Văn C là người đã thành niên (trên 18 tuổi) đã có hành vi quan hệ tình dục với cháu Đỗ Thị L khi cháu có độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong các ngày 27/4/2020, 08/5/2020 và 16/5/2020 tại nhà bà Lương Thị C ở thôn Đ, xã P, Gia Lâm, Hà Nội. Tất cả các lần C quan hệ tình dục với L đều có sự đồng tình, tự nguyện của L, không bị cưỡng bức hay ép buộc.

Về tình tiết làm nạn nhân có thai: Theo Phiếu kết quả chẩn đoán hình ảnh siêu âm sản phụ khoa ngày 19/5/2020 của Bệnh viện đa khoa Đức Giang kết luận: “theo dõi thai nhỏ trong buồng tử cung”, chưa làm rõ được tuổi thai của L. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 04 yêu cầu giám định bổ sung xác định thai nhi trong tử cung của cháu Đỗ Thị L có cùng huyết thống với cháu L và Lục Văn Chay không nhưng L nhiều lần từ chối giám định. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, C khai cả ba lần bị cáo quan hệ tình dục với L đều xuất tinh trong âm đạo và không sử dụng bất kì biện pháp tránh thai nào. Bị cáo và L có quan hệ tình cảm với nhau nên L chỉ quan hệ tình dục với một mình bị cáo. Bị cáo khẳng định việc L có thai là do các lần bị cáo quan hệ tình dục với L (Lời khai bị cáo tại các136 BL: 128); Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cháu L xuất trình một Phiếu siêu âm thai ngày 14/9/2020 của cháu L tại Phòng khám đa khoa Tâm Đức, tuổi thai tương đương 22 tuần 1 ngày +- 7 ngày, dự kiến ngày sinh 17/01/2021; Kết luận: một thai nhi trong buồng tử cung hiện tại siêu âm bình thường. Như vậy, tuổi thai phù hợp với thời điểm bị cáo giao cấu với L. Bị hại Đỗ Thị L khai: L và C có quan hệ tình cảm (yêu nhau) nên L chỉ quan hệ tình dục với C, ngoài ra không quan hệ với bất kì ai khác. Tất cả các lần quan hệ tình dục với C, cả hai đều không sử dụng biện pháp tránh thai nào (các BL: 90, 92) và C đều xuất tinh trong âm đạo, cháu L khẳng định thai nhi trong tử cung là của C nên không cần phải giám định ADN để xác định cha – con thai nhi, vì vậy L không đồng ý giám định ADN. Chị Nguyễn Thị N là người đại diện hợp pháp của cháu L cho rằng C đã quan hệ tình dục với L nên L đã có thai với C.

Như vậy, có căn cứ khẳng định: Lục Văn C đã có hành vi giao cấu với cháu Đỗ Thị L hai lần trở lên và việc cháu L có thai là do chính hành vi giao cấu của C làm cho cháu L có thai khi cháu có độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi. Hành vi của bị cáo Lục Văn C đã đủ yếu tố cấu thành “Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a,d khoản 2 Điều 145 của Bộ luật hình sự.

Bản cáo trạng số 172/CT-VKSGL, ngày 13/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố hành vi của bị cáo Lục Văn C về Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo điểm a,d khoản 2 Điều 145 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4]. Về hình phạt và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực nhận thức hành vi giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là vi phạm pháp luật, mặc dù giữa bị cáo và bị hại có quan hệ tình cảm với nhau bởi bị hại là đối tượng mà Nhà nước buộc phải bảo vệ. Việc trừng trị hành vi giao cấu với người dưới 16 tuổi cũng chủ yếu nhằm bảo vệ sự phát triển bình thường về mặt tình dục đối với họ. Bị cáo có hai tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm a,d khoản 2 Điều 145 của BLHS.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét, tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo là dân tộc thiểu số, cư trú tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, hiểu biết có phẩn hạn chế nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 – Bộ luật Hình sự, lấy đó làm căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm đề nghị áp dụng đối với bị cáo phù hợp với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo.

[6]. Về ý kiến của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đối với mức hình phạt của bị cáo có phù hợp, có phần chưa phù hợp với nhận định của HĐXX.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị N rút yêu cầu bị cáo bồi thường nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Đối với việc bị cáo gây thương tích cho chị N, chị N đã rút đơn yêu cầu xem xét xử lý hình sự đối với bị cáo nên HĐXX không xem xét.

Đối với bà Lương Thị C không biết việc C có quan hệ tình dục với cháu L nên HĐXX không xem xét vai trò của bà C trong vụ án này.

[8].Về xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 chiếc điếu cày bằng nứa tre.

[9]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Lục Văn C là dân tộc thiểu số (dân tộc Nùng) sinh sống ở thôn Lương, xã V, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, theo Quyết định số: 582/QĐ-TTg, ngày 28/04/2017 của Thủ Tướng Chính phủ là thôn, xã đặc biệt khó khăn. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, quản lý và sử dụng án phí, L phí Tòa án, bị cáo thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí. Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm a,d khoản 2 Điều 145; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào các Điều: 326, 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ: khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, quản lý và sử dụng án phí, L phí Tòa án:

Tuyên bố : bị cáo Lục Văn C phạm Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Xử phạt: Lục Văn C 42 (bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 25/5/2020.

Về án phí: Bị cáo Lục Văn C được miễn tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết đinh được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Án xử sơ thẩm. Bị cáo, bị hai, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 181/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Số hiệu:181/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;