Bản án 181/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 181/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 167/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 264/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Mai Việt A, sinh năm 197X tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Số 41B Cụm 7 phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Thôn N, xã Q, huyện T, Hải Phòng; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai T và bà Hoàng Thị T; có vợ là Phạm Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại Bản án số 19 ngày 19/6/1992, Tòa án nhân dân huyện Nam Tha, tỉnh Hải Hưng xử 03 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản của công dân” và 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Tổng hợp hình phạt cho hai tội là 12 tháng tù tính từ ngày 19/12/1991. Qua xác minh, hiện không còn hồ sơ và sổ sách lưu trữ việc thi hành án; tại Bản án số 184 ngày 28/7/1992, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Hưng xử 12 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam”. Tổng hợp hành phạt với Bản án số 19 ngày 19/6/1992 của Tòa án nhân dân huyện Nam Tha, buộc chấp hành 24 tháng tù tính từ ngày 19/12/1991. Qua xác minh, hiện không còn hồ sơ và sổ sách lưu trữ việc thi hành án; tại Bản án số 1068 ngày 22/8/1995, Tòa án nhân dân tối cao xử 03 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/1995. Thi hành án xong các khoản án phí và một phần khoản bồi thường vào ngày 25/8/1995, đến ngày 14/8/2001 được Đội Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền ra Quyết định đình chỉ thi hành án đối với khoản bồi thường còn lại (đều đã xóa án tích); bị tạm giữ ngày 05/8/2019; tạm giam ngày 07/8/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ ngày 04/8/2019, Tổ công tác Công an phường Kênh D làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực trước cửa nhà số 01/31 T, phường Kênh D, quận L, thành phố Hải Phòng phát hiện Nguyễn Văn G, sinh năm 196Y; nơi cư trú: Số 27/196 T, phường T, quận L, thành phố Hải Phòng điều khiển xe máy biển kiểm soát: 15B1-482.98 chở Mai Việt A có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma túy. Tiến hành kiểm tra phát hiện tại túi quần phía trước bên trái của Việt A 01 túi nilon màu đen bên trong có 01 coóng thủy tinh, 01 bình thủy tinh màu tím, 02 ống hút nhựa và 01 bật lửa ga màu đỏ. Sau đó, kiểm tra người Việt A thu giữ trong 01 túi giả da màu đen đeo trên thắt lưng bên phải có 01 túi nilon màu trắng chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy đá). Ngoài ra còn thu giữ của Việt A 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo và số tiền 1.800.000 đồng. Lực lượng công an đã lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số 421/KLGĐ(Đ6) ngày 07/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon màu trắng thu giữ của Mai Việt A có khối lượng 0,1746 gam, là loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Mai Việt A khai nhận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 04/8/2019, Việt A đi bộ một mình đến khu vực đầu ngõ L, quận L, thành phố Hải Phòng thì gặp và mua của 01 người nam giới không quen biết 01 túi ma túy đá đựng trong túi nilon màu trắng với giá 200.000 đồng. Việt A cầm túi ma túy vừa mua cất vào túi giả da màu đen đang đeo trên thắt lưng bên phải rồi thuê người lái xe ôm là ông Nguyễn Văn G chở. Đến khu vực Q gần cầu vượt D thì Việt A xuống xe, đi vào một quán tạp hóa (không nhớ địa chỉ) mua của 01 người nam giới không quen biết 01 coóng thủy tinh, 01 bình thủy tinh màu tím, 02 ống hút nhựa và 01 bật lửa ga màu đỏ với giá 150.000 đồng để sử dụng ma túy. Sau đó, Việt A bảo ông G tiếp tục chở đến ngõ 201 T với mục đích tìm chỗ sử dụng ma túy. Khi đi đến khu vực trước cửa nhà số 01/31 Trại Lẻ, phường Kênh D, quận L, thành phố Hải Phòng thì bị lực lượng công an kiểm tra, bắt giữ. Việt A không nói cho ông G biết việc Việt A cất giữ trái phép chất ma túy và đi mua bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá. Ngoài ra, chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, Việt A sử dụng liên lạc với người thân, không liên quan đến việc mua bán ma túy. Số tiền 1.800.000 đồng do Việt A lao động tích góp mà có.

Bản Cáo trạng số 184/CT-VKS ngày 13/11/2019, Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Mai Việt A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Mai Việt A mức án từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng số ma túy cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định, 01 coong thủy tinh, 01 bình thủy tinh màu tím, 02 ống hút nhựa, 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 chiếc túi giả da màu đen kích thước 5x10cm.

Trả lại số tiền 1.800.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu OPPO màu đen thu giữ của bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tra tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện là đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội da:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, báo cáo bắt giữ của lực lượng công an, kết luận giám định, vật chứng thu giữ, tài liệu khác có trong hồ sơ thể hiện: Hồi 21 giờ ngày 04/8/2019, Mai Việt A đã có hành vi cất giữ trái phép 0,1746 gam, là loại Methamphetamine tại khu vực trước cửa nhà số 01/31 Trại Lẻ, phường Kênh D, quận L, thành phố Hải Phòng với mục đích để sử dụng cho bản thân nên đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Mai Việt A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an xã hội.

- Về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4] Về nhân thân: Bị cáo có 03 tiền án mặc dù đều đã được xóa án tích nhưng cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, không chịu lao động cải tạo thành người có ích mà tiếp tục phạm tội nên cần phải xử lý nghiêm, bắt cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc thu nhập ổn định và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[8] Đối với số ma túy cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định đã được niêm phong trong phong bì thư. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với 01 coong thủy tinh, 01 bình thủy tinh màu tím, 02 ống hút nhựa, 01 bật lửa ga màu đỏ là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với 01 chiếc túi giả da màu đen kích thước 5x10cm thu giữ của bị cáo không còn giá trị sử dụng nên căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[11] Đối với số tiền 1.800.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu OPPO màu đen thu giữ của bị cáo xét không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[12] Đối với a Nguyễn Văn G là người làm xe ôm điều khiển xe máy biển kiểm soát: 15B1 - 482.98 chở Việt A nhưng không biết Việt A cất giữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không xử lý. Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy biển kiểm soát: 15B1 - 482.98 là tài sản hợp pháp của a G nên Cơ quan công an đã trả lại cho a G nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[13] Đối với người nam giới bán ma túy cho Mai Việt A, quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân chưa xác định được căn cước lai lịch nên chưa có cơ sở để điều tra làm rõ nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[14] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Mai Việt A 21 (hai mươi mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 05 tháng 8 năm 2019.

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng số ma túy cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định, 01 coong thủy tinh, 01 bình thủy tinh màu tím, 02 ống hút nhựa, 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 chiếc túi giả da màu đen kích thước 5x10cm.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.800.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu OPPO màu đen thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành án (Theo biên lai thu tiền số 0004450 ngày 14/11/2019 và biên bản giao, nhận tài sản vật chứng ngày 14/11/2019 giữa Công an quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 181/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:181/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;