TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 180/2023/HS-PT NGÀY 05/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 05 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 187/2023/TLPT-HS ngày 01/8/2023, đối với bị cáo Lê Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 21/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Lê Văn T - Sinh năm 1992, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi thường trú: Thôn L, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở: Buôn A, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn TH và bà Trương Thị L1; bị cáo có vợ là H’L2 Kbuôr và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 06/01/2022, Lê Văn T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-XPHC ngày 06/01/2022 về hành vi “Hủy hoại tài sản của người khác”, mức phạt: 2.000.000 đồng.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/02/2023 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 15 giờ ngày 01/02/2023, Lê Văn T đi nhờ xe của người đi đường đến xã H, huyện K gặp được người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) mua 500.000 đồng ma túy. Sau khi mua được ma túy, T đem về sử dụng một phần tại nhà ở buôn A, xã E, huyện K, số ma túy còn lại T cất giấu trong túi quần. Sau đó, bạn của T là Mai Chí I đến nhà T chơi game. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Lê Văn T bị tổ công tác thuộc đội Cảnh sát kinh tế - Ma túy Công an huyện K phát hiện bắt quả tang T đang cất giấu trong túi quần bên phải phía trước 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa các chất rắn dạng tinh thể (nghi là ma túy đá), ngoài ra tại khu vực phòng ngủ của T phát hiện có 01 chai nhựa được gắn ống hút nhựa màu cam và ống hút thủy tinh trong suốt. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản và niêm phong tang vật để xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại Bản kết luận giám định số: 185/KL-KTHS ngày 08/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk, đã kết luận: Các chất rắn dạng tinh thể bên trong 01 túi nylon màu trắng được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng 0,4757 gam, loại Methamphetamine.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 21/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 02/02/2023.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27/6/2023 bị cáo Lê Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng người, đúng tội. Xét mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là thoả đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo Lê Văn T tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vì muốn có ma túy sử dụng nên vào ngày 01/02/2023 Lê Văn T đã tìm mua ma túy của một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) với giá 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T đem về sử dụng một phần tại nhà ở buôn A, xã E, huyện K, số ma túy còn lại T cất giấu trong túi quần thì bị lực lượng Công an phát hiện thu giữ 0,4757 gam ma tuý loại Methamphetamine. Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp lý và đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thì thấy rằng mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.
[3] Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn T, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 21/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.
[2] Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 02/02/2023.
[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 180/2023/HS-PT về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 180/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về