TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 180/2017/HSST NGÀY 29/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1; Địa chỉ: Số 06 đường Lý Tự Trọng, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 104/2017/HSST ngày 29 tháng 6 năm 2017 đối với bị cáo:
Đào Tống Ngọc S; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 17/02/1994, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 13/29 đường T, phường G, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 188/102 đường K, phường L, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông Đào Ngọc M, sinh năm: 1963 và bà Tống Thị Kim C, sinh năm: 1965; Tiền án - Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 09/3/2017; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Đào Tống Ngọc P; Địa chỉ: 186/12 đường K, phường L, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Đào Tống Ngọc S bị Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên vào khoảng 16 giờ 15 phút ngày 21/8/2016, Đào Tống Ngọc S đi đến hẻm 122 Tôn Đản, Quận 4 mua 02 gói ma túy tổng hợp của một người phụ nữ (không rõ lai lịch) với giá 700.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo mang về phòng của mình tại số 188/102 đường K, phường L, Quận X để cùng sử dụng với Đào Tống Ngọc P. Trong lúc cả hai đang sử dụng ma túy thì bị tổ kiểm tra đi kiểm tra lưu trú phát hiện cạnh nơi bị cáo và P đang ngồi có 01 hộp kim loại màu đen in chữ Maxman bên trong đựng 02 gói nylon chứa ma túy tổng hợp và một bộ dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp (Bị cáo khai số ma túy trên là của bị cáo dùng để sử dụng cho bản thân) nên tổ kiểm tra thu giữ vật chứng đồng thời đưa S và P về Công an phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang rồi chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 lập hồ sơ xử lý.
Qua điều tra, bị cáo Đào Tống Ngọc S đã khai nhận: Khoảng 16 giờ 15 phút ngày 21/8/2016, S có rủ Đào Tống Ngọc P cùng nhau hùn tiền để mua ma túy sử dụng chung nhưng do không có tiền nên P không có hùn với S nên sau đó S một mình đến hẻm 122 Tôn Đản, Quận 4 mua 02 gói ma túy tổng hợp của một người phụ nữ (không rõ lai lịch) với giá 700.000 đồng đem về nhà rủ P cùng sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt giữ như trên. Lời khai của S phù hợp với lời khai nhân chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.
Vật chứng vụ án:
- 02 gói nylon chứa tinh thể không màu trong (trong 01 hộp thiếc có ghi chữ “MAXMAN”) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,5455 gam, loại Methamphetamine (Theo Kết luận giám định số: 1605/KLGĐ-H ngày 28/10/2016 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh);
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia (số imei: 353669/01/627649/0) thu giữ của Đào Tống Ngọc P;
- 01 chai gas bằng kim loại màu đen có in chữ Bluestar;
- 01 bình nhựa màu trắng;
- 01 hộp quẹt kim loại màu trắng in chữ Chivas.
Tại Cáo trạng số 110/CTr-VKS ngày 20 tháng 6 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đã truy tố bị cáo Đào Tống Ngọc S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị xử phạt bị cáo S từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù; Phạt bị cáo 5.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước; Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo; Trả lại cho anh Đào Tống Ngọc P 01 điện thoại di động hiệu Nokia (số imei: 353669/01/627649/0); Tịch thu, tiêu hủy 01 bình gas bằng kim loại màu đen có in chữ Bluestar, 01 bình nhựa màu trắng và 01 hộp quẹt kim loại màu trắng in chữ Chivas.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;
XÉT THẤY
Tại phiên tòa, bị cáo Đào Tống Ngọc S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu và khai nhận:
Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên vào khoảng 16 giờ 15 phút ngày 21/8/2016, Đào Tống Ngọc S đi đến hẻm 122 Tôn Đản, Quận 4 mua 02 gói ma túy tổng hợp của một người phụ nữ (không rõ lai lịch) với giá 700.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, S mang về phòng của mình tại số 188/102 đường K, phường L, Quận X để cùng sử dụng với Đào Tống Ngọc P. Trong lúc cả hai chưa kịp sử dụng ma túy thì bị tổ kiểm tra lưu trú phát hiện, bắt giữ.
Theo Kết luận giám định số 1605/KLGĐ-H ngày 28/10/2016 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon (trong 01 hộp thiếc có ghi chữ “MAXMAN”) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,5455 gam, loại Methamphetamine.
Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, tang vật thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác mà cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định hành vi của bị cáo Đào Tống Ngọc S đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách về độc quyền quản lý và phòng chống tội phạm về ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Ma túy không những hủy hoại sức khỏe của chính người sử dụng nó, mà còn làm tha hóa thanh thiếu niên, gieo rắc cái chết trắng cho giới trẻ, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác và là một trong những tác nhân lan truyền căn bệnh của thế kỷ HIV-AIDS. Vì vậy, Nhà nước Việt Nam nghiêm cấm việc sản xuất, mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy, đồng thời quy định trừng phạt nghiêm khắc những ai cố tình vi phạm. Bản thân bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố tình mua về cất giữ để sử dụng 02 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,5455 gam, loại Methamphetamine là tình tiết định tội được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Như vậy, cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, phù hợp với quy định của pháp luật, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm minh nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần đấu tranh, phòng ngừa tội phạm nói chung.
Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Đối chiếu tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn so với quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Căn cứ khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội thì các quy định khác có lợi cho người phạm tội được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.
Căn cứ khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 cần phạt bị cáo một khoản tiền theo quy định pháp luật.
Về xử lý vật chứng:
- 02 gói nylon chứa tinh thể không màu trong (trong 01 hộp thiếc có ghi chữ “MAXMAN”) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,5455 gam, loại Methamphetamine là chất Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu, tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia (số imei: 353669/01/627649/0) là tài sản riêng của anh Đào Tống Ngọc P, không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho anh P.
- 01 chai gas bằng kim loại màu đen có in chữ Bluestar, 01 bình nhựa màu trắng, 01 hộp quẹt kim loại màu trắng in chữ Chivas là dụng cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu, tiêu hủy.
Đối với anh Đào Tống Ngọc P khai nhận vào khoảng 16 giờ 15 phút ngày 21/8/2016, bị cáo S có rủ anh P hùn tiền mua ma túy sử dụng chung, do anh P không có tiền nên không hùn với bị cáo S. Sau đó, anh P được bị cáo S rủ cùng sử dụng chung, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị kiểm tra bắt giữ như trên. Lời khai của anh P phù hợp với lời khai của bị cáo S nên Cơ quan điều tra Công an Quận 1 không xử lý hình sự mà ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy” là có cơ sở.
Đối với người phụ nữ bán ma túy cho bị cáo, do không xác định được lai lịch nên chưa có cơ sở để xử lý, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Đào Tống Ngọc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 194; Điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Đào Tống Ngọc S 01 (Một) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 09 tháng 3 năm 2017.
Phạt bị cáo 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.
Kể từ ngày Cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án, nếu bị cáo không nộp số tiền phạt như đã nêu trên, thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
- Áp dụng khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo, bao gồm: 02 gói nylon chứa tinh thể không màu trong (trong 01 hộp thiếc có ghi chữ “MAXMAN”) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,5455 gam, loại Methamphetamine theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 129/17/PNK ngày 20/02/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trả lại cho anh Đào Tống Ngọc P 01 điện thoại di động hiệu Nokia (số imei: 353669/01/627649/0) theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 128/17/PNK ngày 27/02/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tịch thu, tiêu hủy 01 bình gas bằng kim loại màu đen có in chữ Bluestar, 01 bình nhựa màu trắng và 01 hộp quẹt kim loại màu trắng in chữ Chivas theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 128/17/PNK ngày 27/02/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Áp dụng các Điều 98, 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;
Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 180/2017/HSST ngày 29/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 180/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/08/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về