Bản án 179/2018/HNGĐ-ST ngày 23/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 179/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số505/2018/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2018 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 205/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 150/2018/QĐST-HNGĐ ngày06 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1990; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số B đường L, phường L, quận N1, thành phố Hải Phòng; Nơi ở hiện nay: Số A đường Đ, quận C, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Tuấn H, sinh năm 1980; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 28B/28 đường L, phường L, quận N1, thành phố Hải Phòng; Nơi ở hiện nay: Thôn X, xã D, huyện T, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 20 tháng 6 năm 2018 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, chị Nguyễn Thị N (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Tuấn H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, có đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, quận N1, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 57 ngày 10 tháng 11 năm 2011. Sau khi kết hôn vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Đến tháng 6 năm 2016, chị N và anh H chuyển về sinh sống tại Thôn X, xã D, huyện T, thành phố Hải Phòng cùng với bố đẻ anh H. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, lối sống dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã, xích mích với nhau, anh H có hành vi đánh chị N. Mâu thuẫn ngày càng trở nên sâu sắc, trầm trọng. Nên đến đầu năm 2018 chị N và anh H sống ly thân tới nay, không ai quan tâm đến ai. Khi mâu thuẫn xảy ra, gia đình và bạn bè đã tiến hành hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành. Nay chị N nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trở lên trầm trọng, sâu sắc, tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ không có nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Tuấn H.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Tuấn H có 01 con chung tên Nguyễn Tuấn M sinh ngày 21 tháng 01 năm 2012. Khi ly hôn chị đề nghị được nuôi con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị đề nghị để chị và anh H tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị N trình bày chị và anh H không có tài sản chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Chị Nguyễn Thị N đã nộp cho Tòa án: Giấy chứng nhận kết hôn số 57 ngày 10 tháng 11 năm 2011; Bản sao Giấy khai sinh con chung, Chứng minh nhân dân và Sổ hộ khẩu; Đơn xác nhận nơi cư trú có xác nhận của Công an xã Cao Nhân, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng để chứng minh cho yêu cầu của mình. Anh Nguyễn Tuấn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và kết quả xác minh số 74/TB-TA ngày 18/10/2018 nhưng không có ý kiến, quan điểm gì đối với các tài liệu, chứng cứ có trong Hồ sơ vụ án.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu như đã trình bày trong đơn khởi kiện, bản tự khai và không bổ sung gì thêm.

Bị đơn là anh Nguyễn Tuấn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự song đến ngày mở phiên tòa, anh Nguyễn Tuấn H vẫn không trình bày thêm ý kiến gì về việc chị Nguyễn Thị N xin ly hôn.

Tại các biên bản xác minh ngày 06/9/2018 và biên bản lấy lời khai của người làm chứng cùng ngày 06/9/2018 thể hiện quá trình kết hôn, chung sống, quá trình mâu thuẫn, ly thân, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, sâu sắc không thể hàn gắn tình cảm, hòa giải đoàn tụ được và về con chung như chị N đã trình bày.

Trong vụ án này: Lời trình bày của chị Nguyễn Thị N về quan hệ hôn nhân, con chung và lý do đề nghị Tòa án giải quyết các quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà chị giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được và trong quá trình giải quyết vụ án anh H không có ý kiến gì nên đó là sự thật và thuộc trường hợp không phải chứng minh; Quan hệ tài sản, công nợ chung phát sinh từ quan hệ hôn nhân, chị N trình bày không có và không yêu cầu giải quyết, anh H không có ý kiến, yêu cầu gì nên không đặt vấn đề phải chứng minh.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án như sau: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Bị đơn đã không chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Đề nghị áp dụng Điều 28, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Giải quyết cho chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Tuấn H được ly hôn. Về con chung chị N và anh H có 01 con chung tên Nguyễn Tuấn M sinh ngày 21 tháng 01 năm 2012, đề nghị khi ly hôn giao cho chị N được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị N trình bày để chị và anh H tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về tài sản chung chị N trình bày không có tài sản chung và không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị N và anh H được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa, đã đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định pháp luật. Chị N vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, anh H đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị N và anh H.

 [2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Tuấn H được xác lập vào năm 2011 là hợp pháp. Quá trình chung sống đến giữa năm 2016 thì mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ tháng 03 năm 2018 đến nay. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, lối sống dẫn tới vợ chồng thường xuyên xảy ra bất đồng, anh H không quan tâm đến gia đình, vợ con, hôn nhân giữa các bên đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn sâu sắc đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ vợ chồng không còn nên chị Nguyễn Thị N xin ly hôn với anh Nguyễn Tuấn H. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị N với anh Nguyễn Tuấn H.

 [3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Tuấn H có 01 con chung tên Nguyễn Tuấn M sinh ngày 21 tháng 01 năm 2012. Khi ly hôn chị N có nguyện vọng nhận nuôi con chung. Quá trình điều tra xác minh chị N có điều kiện kinh tế, công việc và thu nhập ổn định, nơi cư trú ổn định, có đủ khả năng và thời gian để chăm sóc con chung, con chung Nguyễn Tuấn M còn nhỏ tuổi cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp của người mẹ, từ khi ly thân vẫn được chị N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng khỏe mạnh, bình thường nên cần áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung tên Nguyễn Tuấn M cho chị N tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị N trình bày để tự thỏa thuận và anh H không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Tuấn H không có yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Tuấn H.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên Nguyễn Tuấn M sinh ngày 21 tháng 01 năm 2012 cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng. Việc trực tiếp nuôi con chung được thực hiện cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị N trình bày để tự thỏa thuận giải quyết, anh Nguyễn Tuấn H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Tuấn H không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị N đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng tại Biên lai số 0009215 ngày 16 tháng 7 năm 2018; Chị Nguyễn Thị N đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị N, anh Nguyễn Tuấn H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có Phươngyêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 179/2018/HNGĐ-ST ngày 23/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:179/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;