TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 176/2021/HSST NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 133/2021/HSST ngày 18 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 160/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: HUỲNH KIM C; Tên gọi khác: C; Sinh năm 1977, tại: tỉnh Quãng Ngãi; Nơi cư trú: Số 209/36 Q, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Nghề nghiệp: Thợ sơn; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Con ông: Huỳnh Khôi (Huỳnh Văn Tâm), sinh năm 1945; Con bà: Lê Thị Tình (đã chết). Hiện trú tại: Số 209/36 Q, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;
Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm: 1982 và có 02 con con lớn nhất, sinh năm: 2000, con nhỏ nhất sinh năm: 2007; Hiện trú tại: 209/3 6 Q, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân:
- Theo bản án số 62/HSST, ngày 01/7/1997 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân” và 15 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, tổng hợp hình phạt chung của 02 tội là 24 tháng tù (bị cáo đã được xóa án tích).
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/4/2021, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.
Người bị hại: Ông Lê Ngọc V, sinh năm 1957. Địa chỉ: 26 M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.
Người làm chứng:
1. Bà Phạm Thị L, sinh năm 1960. Địa chỉ: 26 M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1983. Địa chỉ: 07 L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ 15 phút ngày 08/11/2020, Huỳnh Kim C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu WaYec, màu đen, biển số: 54X1-3716, đi tìm nhà nào sơ hở tài sản thì trộm cắp. Khi đi đến trước số nhà 26 M, phường T, thành phố B thì nhìn thấy 01 chiếc xe mô tô biển số 47P8-7483, nhãn hiệu Honda, loại xe 70, màu đỏ, xe 03 bánh của ông Lê Ngọc V đang dựng trước cổng, chìa khóa cắm ở ổ khóa điện của xe mô tô, không có người trông coi nên C đi đến lén lút trộm cắp chiếc xe mô tô biển số 47P8-7483, C ngồi lên xe dùng chân đẩy xe di chuyển một đoạn rồi dùng tay đẩy cần gạt số xe, nổ máy rồi điều xe tẩu thoát thì bị bà Phạm Thị L (là vợ ông Lê Ngọc V) phát hiện tri hô. Bà L đuổi theo nắm cổ áo của C thì bị C gạt tay, tiếp tục điều khiển xe biển số 47P8-7483 tẩu thoát về hướng đường L, phường T. Khi C chạy đến trước số nhà 07 L, phường T, thành phố B, thì bị anh Nguyễn Mạnh T và người dân bắt giữ cùng tang vật, giao cho Công an phường T, đồng thời thu giữ: Chiếc xe mô tô biển số 47P8-7483. Sau đó chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để xử lý theo thẩm quyền.
Tại Bản Kết luận định giá về tài sản số: 262/KLĐG ngày 20/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe 70, màu đỏ, số máy C70EM1095113, số khung C70C860962, biển số 47P8-7483, trị giá: 8.000.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 171/CT-VKS ngày 17 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Huỳnh Kim C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại Cơ quan điều tra, cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng số 171/CT-VKS ngày 17 tháng 5 năm 2021, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Huỳnh Kim C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Kim C từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/4/2021.
* Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
- Về xử lý vật chứng:
+ Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã trả lại cho ông Lê Ngọc V là chủ sở hữu hợp pháp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe 70, màu đỏ, biển số 47P8-7483.
+ Đối với chiếc xe mô tô biển số 54X1-3716, nhãn hiệu WaYec, màu sơn đen, là phương tiện bị cáo Huỳnh Kim C sử dụng để đi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra xác định, chiếc xe mô tô biển số 54X1-3716 do anh Nguyễn Thế P, trú tại: 10/171 k, phường H, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh, đứng tên chủ sở hữu. Hiện anh P đã đi khỏi địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tách ra khỏi vụ án, tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau, là phù hợp Bị cáo, người bị hại không có ý kiến tranh luận gì thêm, bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình thực hiện các quyết định điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không xuất trình thêm chứng cứ tài liệu gì, bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 08 giờ 15 phút, ngày 08/11/2020 tại địa chỉ: 26 M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo đã lén lút trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda mang biển kiểm soát 47P8- 7483 của ông Lê Ngọc V. Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 8.000.000 đồng.
Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà.
[2]. Lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, chứng minh đầy đủ các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, như vậy quyết định truy tố bị cáo Huỳnh Kim C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Huỳnh Kim C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định.
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác trái pháp luật, đồng thời còn gây mất ổn định trị an xã hội. Bị cáo nhận thức được rằng, quyền sở hữu tài sản của người khác là bất khả xâm phạm, luôn luôn được Nhà nước bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đều bị pháp luật nghiêm trị. Song, do động cơ vụ lợi cá nhân, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút để trộm cắp tài sản của ông Lê Ngọc V để sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân. Đối với bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử về tội xâm phạm quyền sở hữu, bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm, để rèn luyện bản thân, mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, đối với bị cáo cần có mức án đủ nghiêm và buộc cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, có như vậy mới đủ tính chất giáo dục và răn đe đối với bị cáo.
Đối với hành vi của bị cáo Huỳnh Kim C dùng tay gạt tay của bà Phạm Thị L khi bị bà L phát hiện hành vi trộm cắp xe mô tô biển số 47P8-7483. Tuy nhiên, bị cáo không có hành vi sử dụng vũ lực, hay đe dọa dùng vũ lực đối với bà L, hành vì dùng tay gạt của bị cáo là để ngăn sự truy cản của bà L, ngoài ra bà L cũng không bị thương tích gì và cũng không yêu cầu bị cáo C phải bồi thường thiệt hại gì nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, không đề cập xử lý là phù hợp.
[3]. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, tài sản do bị cáo trộm cắp có giá trị không lớn và tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự mà bị cáo được hưởng cần áp dụng trong khi lượng hình, để giảm nhẹ một phần hình phạt, đồng thời thể hiện được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.
[4]. Về các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
- Về xử lý vật chứng:
+ Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe 70, màu đỏ, biển số 47P8-7483, là tài sản của ông Lê Ngọc V. Ngày 06/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại tài sản trên cho ông V nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.
+ Đối với chiếc xe mô tô biển số 54X1-3716, nhãn hiệu WaYec, màu sơn đen, là phương tiện bị cáo Huỳnh Kim C sử dụng để đi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra xác định, chiếc xe mô tô biển số 54X1-3716 do anh Nguyễn Thế P, trú tại: 10/171 k, phường H, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh, đứng tên chủ sở hữu. Hiện anh P đã đi khỏi địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tách ra khỏi vụ án, tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau, là phù hợp [6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Kim C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015
Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Kim C 01 (một) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/4/2021.
* Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
- Xử lý vật chứng: Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã trả lại cho ông Lê Ngọc V là chủ sở hữu hợp pháp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe 70, màu đỏ, biển số 47P8-7483.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Huỳnh Kim C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Bản án 176/2021/HSST ngày 14/06/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 176/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về