Bản án 176/2019/HNGĐ-ST ngày 13/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 176/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 295/2019/TLST-HNGD ngày 26 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 259/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: anh Nguyễn Quốc Q, sinh năm: 1987. (Có mặt).

Địa chỉ: ấp M, xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang.

Bị đơn: chị Trần Minh N, sinh năm: 1985. (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp M, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Nguyễn Quốc Q trình bày: anh và chị N quen biết, tìm hiểu và kết hôn vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Mỹ Luông vào ngày 20/02/2009. Thời gian chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không phù hợp, chị N tiêu xài không biết tính toán, thường xuyên cờ bạc, nợ tiền nhiều người, bất đồng quan điểm và thường xuyên cự cãi, mâu thuẫn trầm trọng, hôn nhân không hạnh phúc, anh và chị N không còn chung sống với nhau từ năm 2016 đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, nay anh yêu cầu ly hôn với chị N.

- Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng N, sinh ngày 07/12/2008 hiện đang sống chung với chị N. Sau khi ly hôn, anh Q đồng ý để chị N được tiếp tục nuôi con chung, anh Q không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: anh Q xác định không có.

Bị đơn chị Trần Minh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị N vắng mặt. Nên Tòa án không ghi nhận ý kiến của chị N về nội dung đơn khởi kiện của anh Q.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Anh Nguyễn Quốc Q yêu cầu ly hôn với chị Trần Minh N. Chị N có nơi cư trú tại ấp M, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn chị Trần Minh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị N theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: anh Nguyễn Quốc Q và chị Trần Minh N xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh, chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên cự cãi do tính tình không phù hợp, nguyên nhân là do mâu thuẫn về tiền bạc kéo dài do chị N thường xuyên cờ bạc, nợ tiền nhiều người, vợ chồng không còn tình cảm và không còn chung sống với nhau khoảng 03 năm nay, trong thời gian không chung sống với nhau chị N không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Anh Q xác định không còn tình cảm với chị N, nếu tiếp tục sống chung thì không còn hạnh phúc.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị N cũng không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của anh Q cũng như không tham gia các phiên hòa giải, nên Tòa án đã lập biên bản không tiến hành hòa giải được. Điều này cho thấy anh Q và chị N không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng, mâu thuẫn giữa anh Q và chị N là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Q là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng N, sinh ngày 07/12/2008 hiện đang sống chung với chị N. Sau khi ly hôn, anh đồng ý để chị N tiếp tục nuôi con chung, anh không cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét về ý kiến đối với con chung của anh Q thì thấy từ khi anh Q và chị N không còn sống chung cho đến nay chị N vẫn chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung, đảm bảo cho sự phát triển về thể chất và tâm sinh lý của cháu N. Mặt khác, trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án không ghi nhận được ý kiến phản đối của chị N về việc tiếp tục nuôi cháu N, xét thấy việc chấp nhận ý kiến của anh Q đồng ý cho chị N tiếp tục nuôi con chung là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu N cho chị N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Về cấp dưỡng nuôi con chung: do không ghi nhận được ý kiến của chị N nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: ghi nhận ý kiến của anh Q trình bày không có tài sản chung và nợ chung nên không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí: anh Q phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Các Điều 28, 35, 144, 147, 227, 228, 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Quốc Q.

- Về quan hệ hôn nhân: anh Nguyễn Quốc Q được ly hôn với chị Trần Minh N. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 21, quyển số 02/2019 ngày 20/02/2019 do UBND thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang cấp không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: chị Trần Minh N được nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hoàng N, sinh ngày 07/12/2008. Anh Nguyễn Quốc Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về tài sản chung: không xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung: ghi nhận anh Nguyễn Quốc Q xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì anh Nguyễn Quốc Q và chị Trần Minh N vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: anh Nguyễn Quốc Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0012819 ngày 25/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Anh Q đã nộp xong.

Anh Nguyễn Quốc Q được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Chị Trần Minh N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 176/2019/HNGĐ-ST ngày 13/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:176/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;