Bản án 176/2019/HNGĐ-ST ngày 07/08/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 176/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 568/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2019 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 213/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1968.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1966.

Cùng địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện Đ, tỉnh L. (Ông C có mặt, bà D xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Văn C trình bày: Ông và bà Nguyễn Thị D chung sống với nhau vào tháng 10 năm 1987 nhưng không có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu ông và bà D chung sống có hạnh phúc nhưng từ năm 2014 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do cuộc sống vợ chồng không còn hòa hợp hay cải vã nên ông và bà D đã ly thân nhau từ tháng 5 năm 2017 cho đến nay.

Về con chung: Quá trình chung sống, ông và bà D có 01 con tên Nguyễn Quốc T, sinh năm 1988 (đã trưởng thành).

Về tài sản chung: Ông và bà D tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có.

Thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, thời gian ly thân đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn nữa nên ông xin ly hôn với bà Nguyễn Thị D. Khi ly hôn về con chung tên Nguyễn Quốc T đã trưởng thành, tài sản chung: Tự thỏa thuận và nợ chung không có nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Nguyễn Thị D là bị đơn trình bày: Bà xác định về thời gian, điều kiện chung sống, con chung, tài sản chung và nợ chung như lời ông C trình bày là đúng. Thấy rằng cuộc sống hôn nhân giữa bà và ông C không còn hạnh phúc nữa, do cuộc sống vợ chồng không còn hòa hợp, bà và ông C đã ly thân nhau từ tháng 5 năm 2017 cho đến nay mà không hàn gắn tình cảm vợ chồng lại được nên bà đồng ý ly hôn với ông Nguyễn Văn C. Khi ly hôn về con chung tên Nguyễn Quốc T, sinh năm 1988 đã trưởng thành, tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án, các bên đã thỏa thuận được với nhau về nội dung vụ án nhưng do ông C và bà D chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn nên Tòa án không ghi nhận được sự thỏa thuận và tự nguyện ly hôn của các đương sự mà đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

1.1. Ông Nguyễn Văn C xin ly hôn với bà Nguyễn Thị D là thuộc quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình.

1.2. Bà Nguyễn Thị D là bị đơn có địa chỉ thường trú tại ấp L, xã L, huyện Đ, tỉnh L nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

1.3. Bà Nguyễn Thị D có đề nghị xin xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà D theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

2.1. Ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị D chung sống với nhau vào tháng 10 năm 1987 nhưng không có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của ông C và bà D là không hợp pháp đã vi phạm Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

2.2. Ông Nguyễn Văn C cho rằng ông và bà D chung sống có hạnh phúc nhưng từ năm 2014 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do cuộc sống vợ chồng không còn hòa hợp hay cải vã nên ông và bà D đã ly thân nhau từ tháng 5 năm 2017 cho đến nay.

2.3. Đối với bà Nguyễn Thị D vắng mặt tại phiên tòa nhưng bà có lời trình bày xác định cuộc sống hôn nhân giữa bà và ông C không còn hạnh phúc nữa, do cuộc sống không còn hòa hợp, bà và ông C đã ly thân nhau từ tháng 5 năm 2017 cho đến nay mà không hàn gắn tình cảm vợ chồng lại được nên bà đồng ý ly hôn với ông Nguyễn Văn C. Khi ly hôn về con chung tên Nguyễn Quốc T, sinh năm 1988 đã trưởng thành, tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2.4. Tuy nhiên, do ông C và bà D chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 10 năm 1987 mà không có đăng ký kết hôn nên Hội đồng xét xử không công nhận ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị D là vợ chồng.

Về con chung: Ông C và bà D chung sống có 01 con chung tên Nguyễn Quốc T, sinh năm 1988 (đã trưởng thành) nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là phù hợp.

Về tài sản chung: Ông C và bà D thống nhất tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn C phải chịu án phí ly hôn sung ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, khoản 1 Điều 228 và khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 14 và Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C đối với bà Nguyễn Thị D về việc “Xin ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị D là vợ chồng.

- Về con chung: Ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị D có 01 con chung tên Nguyễn Quốc T, sinh năm 1988 (đã trưởng thành).

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

2. Án phí: Buộc ông Nguyễn Văn C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sung vào ngân sách Nhà nước. Số tiền này được chuyển từ tiền tạm ứng án phí ông C đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004792 ngày 03/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa sang án phí để thi hành, như vậy ông C không phải nộp tiếp.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 176/2019/HNGĐ-ST ngày 07/08/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:176/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;