Bản án 176/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 176/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 41/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 2 năm 2019 về việc “Tranh chấp HNGĐ, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2019/QĐXXST-DS ngày 21/3/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đặng Thị H, sinh năm 1978;

Bị đơn: Ông Lê Văn H, sinh năm 1978.

Cùng cư trú: Ấp V, xã V, huyện A, tỉnh An Giang. (Bà H có mặt, ông H mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai cùng ngày 12/02/2019 cùng với các tài liệu và chứng cứ kèm theo của bà Đặng Thị H trình bày: Hôn nhân của bà với ông Lê Văn H do tìm hiểu yêu thương rồi đi đến hôn nhân năm 1995, có đăng ký kết hôn tại xã V vào ngày 15/11/2010. Sau khi kết hôn, bà sống bên chồng tại ấp V, xã V, huyện A. Bà làm dâu bên chồng khoảng 1 năm rồi bà về nhà cha mẹ ruột sống. Đến năm 2000 bà và ông H có nhà riêng. Nguyên nhân mâu thuẫn do ông H cờ bạc và không chăm lo cho gia đình. Ông H thường dùng những lời nói thô tục xúc phạm bà và gia đình bà, đánh bà nhiều lần. Nhận thấy tình cảm giữa bà và ông H không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông H.

- Về con chung: Bà và ông H có 02 con chung. 1/ Lê Minh L, sinh ngày 01/01/1997.

2/ Lê Vũ K, sinh ngày 18/11/2007. Hiện nay cháu L đã trường thành và sống tự lập nên bà không yêu cầu. Cháu K đang sống với bà. Khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy cháu K, không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận.

- Về nợ chung: Không có.

Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Lê Văn H theo quy định nhưng ông H vẫn không có mặt theo văn bản triệu tập của Tòa án, mặc dù trong quá trình tiến hành tố tụng Tòa án có phân công cán bộ đến tại nhà của ông H làm việc nhưng vẫn không gặp ông H để ghi lời khai.

Chứng cứ thu thập được: Tại biên bản làm việc ngày 20/3/2019 được bà Lê Thị Trang Đ cho biết: Bà là chị ruột của ông Lê Văn H, bà Đặng Thị H là em dâu của bà. Bà H, ông H không còn sống chung từ năm 2018 đến nay. Ông H có gặp mẹ bà H xin hàn gắn nhưng không được. Khả năng hai người hàn gắn là không thể.

Tại biên bản xác minh ngày 20/3/2019 được ông Nguyễn Đình T – Công an viên xã V cho biết: Ông Lê Văn H, sinh năm 1978 vẫn còn đăng ký hộ khẩu tại ấp V ,xã V, huyện A, tỉnh An Giang.

Tại Phiên tòa bà H bảo lưu ý kiến. Riêng ông H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử (HĐXX), xét xử vắng mặt ông H theo thủ tục chung.

Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị HĐXX: Yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ đề nghị chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Bà Đặng Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Lê Văn H, đồng thời ông H cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông H được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông H theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà H, ông H do tìm hiểu yêu thương rồi đi đến hôn nhân, có tổ cức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND xã V vào ngày 29/03/2011 theo quy định nên được xem là hôn nhân hợp pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên Tòa án thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu của bà H xin ly hôn với ông H. HĐXX xét thấy thời gian ly thân giữa bà H, ông H đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn. Việc bà H trình bày phù hợp với lời trình bày của bà Lê Thị Trang Đ (chị ruột ông H). HĐXX xét thấy mâu thuẩn của bà H và ông H không thể hàn gắn nên HĐXX chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của bà H theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Bà H, ông H có 02 con chung. 1/ Lê Minh L, sinh ngày 01/01/1997. 2/ Lê Vũ K, sinh ngày 18/11/2007. Cháu L đã trưởng thành và tự lập được, bà H không yêu cầu. Bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu K, cháu K cũng trình bày nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung, HĐXX nghĩ nên chấp nhận để cho bà H tiếp tục nuôi dạy con chung là phù hợp.

[5] Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bà H không yêu cầu cấp dưỡng nên HĐXX công nhận sự tự nguyện của H.

HĐXX cũng giải thích cho các đương sự biết: Bà H cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Bà H trình bày tự thỏa thuận về tài sản chung và xác định khôn có tài sản chung nên HĐXX không xem xét giải quyết. Nếu sau này các đương sự có yêu cầu thì sẽ khởi kiện bằng một vụ kiện khác.

[7] Về án phí: Bà H là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân. Các bên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm b, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử : Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Đặng Thị H.

Về hôn nhân: Bà Đặng Thị H được ly hôn với ông Lê Văn H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 175 ngày 15/11/2010 của Ủy ban nhân dân xã V không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Bà H được tiếp tục nuôi dạy con chung tên Lê Vũ K, sinh ngày 18/11/2007. Công nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà H cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về án phí: Bà Đặng Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, chuyển từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0011087 ngày 19/2/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A. (bà H đã nộp đủ) Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (07/5/2019) bà H có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn này đối với ông H được tính kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 176/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

Số hiệu:176/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;