Bản án 176/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 176/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 31 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 277/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2018 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 251/2018/QĐXXST–HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Chí T, sinh năm 1995;

Địa chỉ: Ấp H, xã T, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Chị Trương Tường V, sinh năm 1998;

Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Khánh E và bà Võ Thị C;

Cùng địa chỉ: Ấp H, xã T, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

Tại phiên tòa anh T có mặt, chị V, ông Khánh E và bà C vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 11/6/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Trần Chí T trình bày:

- Về hôn nhân: Anh với chị Trương Tường V tự nguyện kết hôn vào năm 2016, không đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống, khi anh đi chấp hành án phạt tù thì chị V về nhà cha mẹ ruột sinh sống, khi chấp hành án xong anh có qua rước chị V, nhưng chị V không về. Nay anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn gắn bó, yêu thương nhau nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Trương Tường V.

- Về con chung: Anh T xác định vợ chồng có 01 người con chung được cha mẹ của anh đặt tên cho cháu là Trần Chí N, khi anh đi chấp hành án, ở nhà chị V làm giấy khai sinh cho con sinh con, anh không biết chị V ghi con họ tên gì. Nay anh biết chị V làm giấy khai sinh cho con tên là Trương Gia Th sinh ngày 04/3/2017. Khi ly hôn anh đồng ý giao Trương Gia Th cho chị V tiếp tục nuôi dưỡng và anh cấp dưỡng cho con mỗi tháng 700.000 đồng, mỗi tháng cấp dưỡng một lần, tính từ ngày 09/7/2018 cho đến khi Trương Gia Th tròn 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Anh T xác định khi chung sống vợ chồng có 12 chỉ vàng 24k, do anh vi phạm pháp luật hình sự nên anh có bàn với chị V bán 10 chỉ vàng 24k để khắc phục cho bị hại, còn lại 02 chỉ vàng 24k bán lúc chị V sinh con hiện vợ chồng không còn tài sản chung.

- Về nợ: Anh T xác định trong thời gian chung sống vợ chồng không nợ ai và không ai nợ lại vợ chồng, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Tại phiên hòa giải ngày 24/7/2018, bị đơn chị Trương Tường V trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh T kết hôn năm 2016, không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống anh T đi chấp hành án, chị về cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Sau khi chấp hành án về anh T không có liên hệ gì với chị mà nộp đơn xin ly hôn. Nay chị đồng ý ly hôn theo yêu cầu của anh T.

- Về con: Chị V xác định vợ chồng có 01 người con chung tên Trương Gia Th sinh ngày 04/3/2017 (khi làm giấy khai sinh cho con do vợ chồng không có đăng ký kết hôn nên không ghi tên và lấy họ cha cho con được). Khi ly hôn chị V yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Th, thống nhất việc anh T cấp dưỡng cho con mỗi tháng 700.000 đồng, việc cấp dưỡng thực hiện mỗi tháng một lần, tính từ ngày 09/7/2018 cho đến khi cháu Th tròn 18 tuổi.

- Về tài sản: Chị V xác định cha mẹ chồng là ông Trần Khánh E và bà Võ Thị C có giữ giùm 12 chỉ vàng 24k, tại đơn yêu cầu ngày 18/6/2018 chị có yêu cầu cha mẹ chồng giao lại cho chị được hưởng khi ly hôn. Nay cha mẹ chồng không thừa nhận nên chị xin rút lại yêu cầu việc cha mẹ chồng giao lại số vàng nêu trên và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ: Chị V xác định trong thời gian chung sống vợ chồng không nợ ai và không ai nợ lại vợ chồng, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Tại phiên hòa giải ngày 24/7/2018, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Khánh E trình bày: Trước đây T đi chấp hành án, ông xin bảo lãnh cho T về nhà, T và V thống nhất bán 10 chỉ vàng 24k để khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại và bán 02 chỉ chi phí khi V sinh con, ông và bà C không có quản lý giùm số vàng như chị V yêu cầu, nên không đồng ý giao lại cho chị V. Nay chị V rút lại yêu cầu đối với số vàng 12 chỉ vàng 24k, ông không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Chị Trương Tường V, ông Trần Khánh E và bà Võ Thị C có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị V, ông Khánh E và bà C.

 [2] Về hôn nhân: Anh Trần Chí T và chị Trương Tường V tự nguyện chung sống với nhau năm 2016, anh chị xác lập mối quan hệ hôn nhân trên tinh thần tự nguyện nhưng không có đăng ký kết hôn. Tại phiên tòa sơ thẩm anh T vẫn giữ yêu cầu được ly hôn với chị V. Tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Căn cứ vào khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử tuyên bố không công nhận anh Trần Chí T với chị Trương Tường V là vợ chồng.

 [3] Về con: Anh T và chị V có 01 người con chung tên Trương Gia Th sinh ngày 04/3/2017, hiện đang sống cùng với chị V. Khi ly hôn anh T và chị V thống nhất thỏa thuận giao cháu Th cho chị V nuôi dưỡng và anh T cấp dưỡng cho cháu Th mỗi tháng 700.000 đồng, phương thức cấp dưỡng định kỳ mỗi tháng 01 lần, tính từ ngày 09/7/2018 cho đến khi cháu Th tròn 18 tuổi. Hội đồng xét xử xét thấy việc thỏa thuận nuôi con chung và cấp dưỡng cho con của anh T và chị V là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật, được chấp nhận.

 [4] Về tài sản chung: Anh T xác định không có; chị V xác định cha mẹ chồng là ông Trần Khánh E và bà Võ Thị C có giữ giùm 12 chỉ vàng 24k nhưng ông Khánh E và bà C không thừa nhận có quản lý giùm số vàng của chị V yêu cầu. Tại phiên hòa giải ngày 24/7/2018, chị V tự nguyện rút lại yêu cầu việc cha mẹ chồng giao lại số vàng chị được hưởng và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thấy, việc chị V rút lại yêu cầu là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật, nên được chấp nhân.

 [5] Về nợ: Anh T và chị V xác định anh chị không có nợ ai và không ai nợ lại anh chị, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

 [6] Án phí:

+ Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm anh T phải chịu 300.000 đồng; án phí dân sự sơ thẩm anh T phải chịu 150.000 đồng.

+ Án phí dân sự sơ thẩm chị V không phải chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53; khoản 2 Điều 81 và Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 217; Điều 218; điểm a khoản 5 và điểm b khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Không công nhận anh Trần Chí T và chị Trương Tường V là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Trương Gia Th sinh ngày 04/3/2017 cho chị Trương Tường V trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Trần Chí T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Trương Gia Th mỗi tháng 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng), việc cấp dưỡng thực hiện định kỳ mỗi tháng một lần, kể từ ngày 09/7/2018 cho đến khi cháu Th tròn 18 tuổi. Anh T có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày chị V có đơn yêu cầu thi hành án đối với khoản tiền được thi hành án nếu như anh T chưa thi hành xong số tiền phải thi hành án thì phải chịu thêm phần lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án tại thời điểm thi hành án.

3. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của chị Trương Tường V về việc yêu cầu ông Trần Khánh E và bà Võ Thị C trả lại cho chị 06 chỉ vàng 24k.

4. Về án phí:

- Anh Trần Chí T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0010031 ngày 11/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi; anh T đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

- Anh Trần Chí T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng); anh T chưa nộp án phí dân sự sơ thẩm.

- Chị Trương Tường V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả lại cho chị V 525.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0010109 ngày 09/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi.

5. Về quyền kháng cáo: Anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị V, ông Khánh E và bà C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 176/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về ly hôn

Số hiệu:176/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;