Bản án 175/2021/HNGĐ-ST ngày 19/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 175/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 46/2021/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp “ly hôn, về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 202/2021/QĐXX-ST ngày 08 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Bích T, sinh năm 1982; địa chỉ: ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang; địa chỉ liên lạc: số 378, ấp M, xã H, huyện C, tỉnh An Giang (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Trương Minh M, sinh năm 1983; địa chỉ: ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai nguyên đơn chị Lê Thị Bích T trình bày: Chị và anh Trương Minh M thông qua mai mối, tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau vào năm 2005, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Vợ chồng sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chồng thường hay đánh bạc, không quan tâm đến gia đình nên thường hay cãi nhau dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn và không còn chung sống từ đó đến nay. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu ly hôn với anh Trương Minh M. Về quan hệ con chung: Trong thời gian chung sống, vợ chồng có 02 con chung tên Trương Minh N, sinh ngày 13/12/2006 và Trương Hoàn Khả V, sinh ngày 02/7/2016 (hiện do chị T chăm sóc, nuôi dưỡng). Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung, yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi 02 con chung theo quy định pháp luật. Về quan hệ tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về quan hệ nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa, chị T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Riêng, đối với yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi dưỡng 02 con chung theo quy định pháp luật, chị T xin rút lại yêu cầu.

Bị đơn anh Trương Minh M được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra Vệc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh M vẫn vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến và không hòa giải được.

Đại diện Vện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về Vệc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Vệc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử N án là đúng với quy định của pháp luật. Ý kiến về Vệc giải quyết vụ án: Về hôn nhân: Bà Lê Thị Bích T và ông Trương Minh M quen nhau do mai mối, tìm hiểu rồi tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H ngày 01/11/2005 là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được 15 năm thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do ông M không lo làm ăn và có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà T yêu cầu ly hôn với ông M. Xét thấy, xuất phát từ Vệc ông M không lo làm ăn và có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác dẫn đến vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn không thể giải quyết nên đã ly thân. Thời gian ly thân, cả hai không tạo điều kiện hàn gắn hạnh phúc vợ chồng, bà T xác định không còn tình cảm, kiên quyết ly hôn. Điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa bà T với ông M đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông M. Về con chung: Có 02 con chung tên Trương Minh N, sinh ngày 13/12/2006 và Trương Hoàn Khả V, sinh ngày 02/7/2016. Hiện, các cháu N, V đang sống chung với bà T. Bà T yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung. Tại phiên tòa, bà T rút lại yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, Vệc giao con chưa thành niên cho vợ hoặc chồng chăm sóc nuôi dưỡng cần xem xét đến nguyện vọng của con chưa thành niên. Hiện nay, các con chung đều sống chung với bà T vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Tòa án đã tiến hành ghi nhận ý kiến của cháu N có nguyện vọng tiếp tục sống chung với bà T và ông M không tranh chấp Vệc nuôi con chung. Vì vậy, để đảm bảo cuộc sống cho con chung, nghĩ nên tiếp tục giao các cháu N, V cho bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: không có, nên không đề cập giải quyết.

Từ những phân tích nêu trên, đề N Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 217, 244 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình, xem xét:

- Đình chỉ một phần yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con chung.

- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị Bích T đối với ông Trương Minh M.

- Bà Lê Thị Bích T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Trương Minh N, sinh ngày 13/12/2006 và Trương Hoàn Khả V, sinh ngày 02/7/2016. Ông Trương Minh M không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1 Nguyên đơn chị T yêu cầu ly hôn với bị đơn anh M, anh M có nơi cư trú ấp A, xã H, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

2 Bị đơn anh M được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh M là có căn cứ.

[3] Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, xin rút yêu cầu cấp dưỡng nuôi 02 con chung theo quy định đối với ông M. Xét thấy, đây là quyền tự định đoạt của đương sự và sự thay đổi này không vượt quá phạm V khởi kiện ban đầu. Căn cứ Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp 4 Chị T yêu cầu ly hôn với anh M. Chị T và anh M có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân giữa hai người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Theo chị T trình bày, vợ chồng sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh M không quan tâm đến gia đình, thường hay cãi vã nên mâu thuẫn ngày càng nhiều hơn và không còn chung sống hơn 05 tháng cho đến nay. Nhận thấy, tình cảm không còn, chị T yêu cầu ly hôn với anh M. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về Vệc chị T yêu cầu ly hôn và triệu tập anh M tham gia các phiên họp về kiểm tra Vệc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa, nhưng anh M vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của chị T. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa chị T và anh M xuất phát từ Vệc không đồng quan điểm trong cuộc sống, anh M không quan tâm chăm sóc gia đình nên thường hay cãi vã, dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày mâu thuẫn nhiều hơn và không còn chung sống từ cách nay hơn 05 tháng cho đến nay. Trong thời gian này, hai bên c ng không tạo điều kiện cho nhau hàn gắn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu chung sống với nhau c ng không hạnh phúc. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T là phù hợp theo quy định pháp luật.

[5] Về quan hệ con chung: Trong thời gian chung sống, chị T xác định vợ chồng có 02 con chung tên Trương Minh N, sinh ngày 13/12/2006 và Trương Hoàn Khả V, sinh ngày 02/7/2016 (hiện do chị T chăm sóc, nuôi dưỡng). Khi ly hôn, chị T yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau, các cháu N, V do chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nên tâm tư tình cảm của cháu gắn liền với người nuôi dưỡng và trong quá trình giải quyết anh M không có ý kiến phản đối yêu cầu này của chị T. Bên cạnh đó, cháu N có nguyện vọng được sống cùng m . Do đó, để chị T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N, cháu V là phù hợp với pháp luật và nguyện vọng của cháu.

6 Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị T không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

7 Về quan hệ tài sản chung: Chị T trình bày, vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

8 Về quan hệ nợ chung: Chị T trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

9 Án phí hôn nhân sơ thẩm: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ:

- Các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều 244 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Các Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Bích T đối với anh Trương Minh M.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Bích T được ly hôn với anh Trương Minh M.

Giấy chứng nhận kết hôn số 129, quyển số 03, ngày 04 tháng 11 năm 2005 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp cho chị Lê Thị Bích T và anh Trương Minh M không còn giá trị pháp lý.

- Về quan hệ con chung: Chị Lê Thị Bích T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung tên Trương Minh N, sinh ngày 13/12/2006 và Trương Hoàn Khả V, sinh ngày 02/7/2016 (hiện do chị T chăm sóc, nuôi dưỡng). Anh Trương Minh M không phải cấp dưỡng nuôi 02 con chung.

Chị Lê Thị Bích T cùng các thành Vên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Trương Minh M trong Vệc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về quan hệ tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về quan hệ nợ chung: Không có. Ghi nhận Vệc chị Lê Thị Bích T xác định không có nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng sau khi quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì chị Lê Thị Bích T và anh Trương Minh M phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, chị Lê Thị Bích T phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu số 0009418 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 18/01/2021. Chị T đã nộp đủ án phí.

Đình chỉ yêu cầu cấp dưỡng nuôi 02 con chung theo quy định pháp luật của chị Lê Thị Bích T đối với anh Trương Minh M.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 175/2021/HNGĐ-ST ngày 19/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:175/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;