Bản án 175/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU – TỈNH GIALAI

 BẢN ÁN 175/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Tp. P, tỉnh Gia lai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 177/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 204/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: N V A(tên gọi khác: Sắn), Sinh năm 1995 tại thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: 334/32C TTT, phường c, quận B, thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở trước khi bị bắt: 16 BD, tổ 8, phường HL, Tp. P, tỉnh Gia Lai.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn:

7/12; Nghề nghiệp: Thợ Mộc.

Cha: NVM (đã chết); Mẹ: LTKP, sinh năm 1972. Hiện mẹ của bị cáo trú tại phường C, quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có 01 anh ruột, sinh năm 1992. Hiện trú tại: Số 16 BD, tổ 8, phường HL, Tp. P, tỉnh Gia Lai.

Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: 01 tiền án. Ngày 16/4/2018, bị Tòa án nhân dân Tp. P xét xử, tuyên phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Chấp hành án tại Trại giam Đăk Tân, tỉnh Đăk Lăk. Ngày 02/02/2019, chấp hành xong hình phạt chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không.

Bị cáo N V Abị tạm giữ từ ngày 10/8/2020, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay hiện đang tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công An Tp. P.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa) Những người tham gia tố tụng khác:

* Người chứng kiến: Ông NVT; địa chỉ: Tổ 5, phường HP, Tp. P, tỉnh Gia Lai.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

N V A là người có sử dụng ma túy. Do quen biết ngoài xã hội nên A có số điện thoại của đối tượng tên Đ (không rõ nhân thân, lai lịch) là người có bán ma túy. Khoảng 20 giờ ngày 09/8/2020, A gọi điện thoại cho Đ để nhờ mua 02 gói ma túy Khay và 01 viên loại thuốc Lắc với giá 2.000.000 đồng, Đ đồng ý và hẹn A đến khu vực đường PĐ (đoạn gần giáp với đường CMTT, phường HL), Tp. P để lấy ma túy. Sau đó, A thuê xe taxi (không rõ biển số và người điều khiển) đi đến khu vực nêu trên gặp Đ. Tại đây, Đ đưa cho A 02 gói nilon bên trong chứa ma túy dạng Khay và 01 viên ma túy dạng thuốc Lắc, A trả cho Đ 2.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, A thuê xe taxi đi đến nhà TDK (sinh năm 1989, trú tại: Số 07/27 đường BVĐ, Tổ 05, phường HP, Tp. P) để chơi. Trên đường đi, A bẻ viên ma túy thuốc Lắc thành 04 phần và sử dụng hết 01 phần, số còn lại A cất vào trong gói thuốc lá hiệu Capri; 02 gói ma túy Khay, A cất vào trong ví để sử dụng dần. Khi đến nhà của Q, thấy có Đ và N (không rõ nhân thân, lai lịch – là bạn của Q và A) đang ở trong nhà nên A ngồi chơi. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì Q đi chơi về, thấy có A, Đ và N nên cùng ngồi nói chuyện với nhau. Ngồi chơi một lúc, Nam hỏi mượn điện thoại của A để có công việc riêng, A đồng ý và đưa điện thoại cho N, N cầm điện thoại rồi cùng Đ đi về. Đến 10 giờ 15 phút ngày 10/8/2020, khi A đAg nằm ngủ tại phòng khách nhà của Q thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công An Tp. P kiểm tra phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trong ví của A 02 gói nilon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng; thu giữ vỏ bao thuốc lá hiệu Capri bên trong chứa 03 cục chất rắn màu cam.

Qua trưng cầu giám định, tại bản Kết luận giám định số 612 ngày 17/8/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công An tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng dạng tinh thể trong 02 gói nilon trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, tổng khối lượng 0,5954 gam; 03 cục chất rắn, màu cam trong vỏ nilon bọc bên ngoài gói thuốc lá hiệu Capri trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại MDMA, tổng khối lượng 0,1316 gam”.

Đối với chất ma túy loại Ketamine và MDMA còn lại sau giám định, trong 01 bì công văn ghi số 612/PC09 ngày 17 tháng 8 năm 2020, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự - Công An tỉnh Gia Lai, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công An Tp. P chuyển theo vụ án để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 177/CT-VKS ngày 11/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân Tp. P đã truy tố bị cáo N V Avề tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo N V A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm i Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

Đề nghị HĐXX: xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù;

Áp dụng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.

Căn cứ: Khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: Đối với ví da màu nâu mà A dùng để cất giấu ma túy, Cơ quA Cảnh sát điều tra Công An Tp. P chuyển theo vụ án để xử lý - Tịch thu tiêu hủy: 01 bì công văn ghi số: 612/PC09 ngày 17/8/2020, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công An tỉnh Gia Lai.

Đối với chiếc điện thoại mà bị cáo A sử dụng liên lạc để mua ma túy, sau đó A đã cho đối tượng tên N (không rõ nhân thân, lai lịch) mượn nên không thu giữ được.

Đối với đối tượng tên Đ là người mà bị cáo A khai đã bán ma túy cho. Do bị cáo không biết được nhân thân, lai lịch của đối tượng Đ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công An Tp. P đã tiến hành điều tra, xác minh tại địa bàn phường HL, Tp. P nhưng không xác định được đối tượng tên Đ là ai, ở đâu nên chưa có căn cứ để điều tra. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công A Tp. P tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo N V A phải chịu án phí hình sự theo luật định.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trAh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công A Tp. P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Tp. P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo N V A khai nhận: Khoảng 20 giờ ngày 09/8/2020, tại khu vực đường PĐ (đoạn gần giáp với đường CMTT, phường HL), Tp. P, bị cáo mua của đối tượng tên Đ 02 gói ma túy loại Ketamine và 01 viên ma túy loại MDMA với giá 2.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo đã sử dụng 01 phần của viên ma túy loại MDMA; 02 gói ma túy loại Ketamine và phần của viên ma túy loại MDMA còn lại, A cất giấu trong người để sử dụng dần, rồi đến nhà của TDQ ở số nhà 07/27 đường BVĐ, Tổ 05, phường HP, Tp. P ngủ lại. Vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 10/8/2020, khi bị cáo đang ở nhà của Q thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công An thành phố Plleiku phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, tang vật thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp Kết luận giám định số: 612/PC09 ngày 17/8/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công An tỉnh Gia Lai, kết luận:“Chất màu trắng dạng tinh thể trong 02 gói nilon trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, tổng khối lượng 0,5954 gam; 03 cục chất rắn, màu cam trong vỏ nilon bọc bên ngoài gói thuốc lá hiệu Capri trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại MDMA, tổng khối lượng 0,1316 gam”.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các loại chất ma túy, nghiêm cấm việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép. Tệ nạn ma túy là một hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây tác hại xấu cho sức khỏe của con người, làm suy thoái nòi giống dân tộc, làm băng hoại đạo đức và phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác nên Nhà nước có chính sách quản lý, kiểm soát chặt chẽ, nghiêm cấm việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép.

Bị cáo là người đã thành niên, có đủ khả năng lao động, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nhận thức được tác hại của tệ nạn ma túy, nhưng vì nghiện, để thỏa mãn nhu cầu không lành mạnh của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật thực hiện hành vi tàng trữ 0,1316 gam ma túy loại MDMA (thuộc dAh mục I ban hành theo Nghị định số 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ) và 0,5954 gam ma túy loại Katamine (thuộc dAh mục III bA hành theo Nghị định số 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ) với mục đích để sử dụng. Theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 19 ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì tổng khối lượng hai chất ma túy MDMA và Ketamine dưới mức tối thiểu đối với từng chất đó theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, hành vi của N V Ađã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Như vậy hành vi trên của các bị cáo đã cấu thành tội phạm và phải chịu chế tài của pháp luật hình sự.

Ngày 16/4/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân Tp. P xét xử, tuyên phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích; nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân lại tiếp tục phạm tội, nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017. Tuy nhiên HĐXX thấy cần xem xét cho bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

3. Đối với đối tượng tên Đ là người mà bị cA A khai đã bán ma túy cho A. Do A không biết được nhân thân, lai lịch của đối tượng Đ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công An Tp. P đã tiến hành điều tra, xác minh tại địa bàn phường HL, Tp. P nhưng không xác định được đối tượng tên Đ là ai, ở đâu nên chưa có căn cứ để điều tra. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công An Tp. P tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

Đối với TDQ: Việc bị cáo N V Acó hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng Q không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công An Tp. P không có căn cứ xử lý đối với Q.

Đối với các đối tượng tên Đ và N: Do bị cáo N V Avà TDQ không biết về nhân thân, lai lịch của các đối tượng nên trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công An Tp. P chưa làm việc được nên chưa có căn cứ xử lý.

4. Vật chứng của vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 ví da màu nâu mà bị cáo dùng để cất giấu ma túy, không có giá trị sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì công văn số 612/PC09 ngày 17/8/2020 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công An tỉnh Gia Lai.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì những lẽ trên;

2017.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo N V A phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Áp dụng: Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

Xử phạt: bị cáo N V A 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 10/8/2020.

2. Áp dụng: khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.

Căn cứ khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 ví da màu nâu mà bị cáo dùng để cất giấu ma túy, không có giá trị sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì công văn số 612/PC09 ngày 17/8/2020 có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công An tỉnh Gia Lai.

(Tất cả theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công An Tp. P và Chi cục thi hành án dân sự Tp. P).

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo N V Aphải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay (ngày 30/12/2020) bị cáo được quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 175/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:175/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;