Bản án 174/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 174/2017/HSST NGÀY 16/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/8/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 172/2017/HSST ngày 25/7/2017 đối với bị cáo : Lê Xuân H, sinh năm: 1982

ĐKHKTT: Số 67 H, phường H, quận H, thành phố Hà Nội và chỗ ở: Số 163 mới (số 67 cũ) H, phường H, quận H, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; con ông: Lê Xuân Q (đã chết) và bà: Hoàng Thị T; vợ là Trần Thị T và có 02 con (lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2008); tiền án, tiền sự: Không; DCB số 306 do Công an quận Hà Đông lập ngày 05/5/2017; bị bắt từ ngày 03/5/2017 đến ngày 08/5/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn; hiện bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.

*Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo:

Bà Nguyễn Thị Vinh – Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội; có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lê Xuân H bị Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 03/5/2017, H đi xe ôm từ khu vực H, quận Htới Bệnh viện 09 thuộc huyện T, thành phố Hà Nội để tìm mua ma túy sử dụng. Đến nơi, H gặp một thanh niên không quen biết giống người nghiện đang đứng ở lề đường, nên tới gần hỏi “Có heroin không bán cho hai trăm nghìn đồng”, thanh niên này nói “Có, đưa tiền đây”. Nghe vậy, H lấy 200.000 đồng ở trong túi ra đưa cho người thanh niên và được người này đưa cho 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất bột trắng (ma túy heroin). Mua xong, H cầm gói ma túy ở tay phải rồi đi bộ ở đoạn tổ dân phố 16, phường K, quận H, thì bị lực lượng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hà Đông phối hợp với Công an phường Hà Cầu, quận Hà Đông phát hiện, bắt quả tang; thu giữ tại lòng bàn tay phải của H 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất bột trắng được niêm phong trong phong bì thư dán kín có điểm chỉ của Lê Xuân H và người chứng kiến. Cơ quan CSĐT Công an quận Hà Đông đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H, đưa cùng vật chứng về trụ sở để điều tra xử lý.

Ngày 03/5/2017, cơ quan điều tra quyết định trưng cầu giám định 01 gói niêm phong thu giữ của Lê Xuân H nêu trên. Tại bản kết luận giám định số 2738/KLGĐ-PC54 ngày 09/5/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy là ma túy loại heroin, trọng lượng 0,211 gam.”

Tại bản cáo trạng số 172/2017/HSST ngày 25/7/2017, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố bị cáo Lê Xuân H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên tòa :

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, nhận thức được việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật. Bị cáo khai bị cáo bị tai nạn giao thông từ năm 2009 do thời gian đã lâu nên không còn lưu giữ bệnh án, hiện nay sức khỏe yếu không có khả năng lao động phải sống phụ thuộc gia đình, chân tay bị co giật đi lại khó khăn phải có sự trợ giúp của người thân; đề nghị tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích đánh giá toàn bộ chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Bị cáo chưa có tiền án tiền sự; bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; gia đình bị cáo là hộ nghèo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lê Xuân H từ 15 đến 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

*Trợ giúp viên pháp ý bào chữa cho bị cáo nhất trí về điều luật và tội danh Viện kiểm sát truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến nguyên nhân phạm tội bị cáo bị tai nạn giao thông từ năm 2009 đến năm 2013 thường lên cơn đau nên bị cáo mới sử dụng ma túy để giảm cơn đau; sức khỏe bị cáo yếu chân tay bị co giật; bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình khó khăn có mẹ già, gia đình bị cáo là hộ nghèo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p, g khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, bản kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 14 giờ ngày 03/5/2017, Lê Xuân H đi xe ôm đến cổng Bệnh viện 09 huyện T, thành phố Hà Nội mua 01 gói ma túy loại giá 200.000 đồng của một người đàn ông không quen biết, nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân. Khi H mang gói ma túy trên đi đến khu vực tổ dân phố 16, phường K, quận H thì bị lực lượng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hà Đông phối hợp với Công an phường Hà Cầu, quận Hà Đông phát hiện, bắt quả tang. Vật chứng thu giữ 01 gói ma túy loại heroin, trọng lượng 0,211 gam được kết luận giám định.

Với hành vi tàng trữ 0,211 gam heroin của Lê Xuân H cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 172/CT-VKS-HS ngày 25/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Ma túy là mối hiểm họa của toàn xã hội; là nguyên nhân làm lây lan các bệnh HIV – AIDS và còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó, cần có hình phạt tù nghiêm khắc để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xem xét các tình tiết có ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự để giảm một phần hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo khai năm 2009 bị tai nạn giao thông do thời gian đã lâu nên không còn lưu giữ bệnh án, cơ quan điều tra đã cho bị cáo đi kiểm tra sức khỏe tại Bệnh viện đa khoa Hà Đông, chẩn đoán bị cáo “bị bệnh co giật chưa rõ nguyên nhân – R56.8” , kết luận “hiện không thấy hình ảnh bất thường ở tổ chức não và màng não trên phim” (BL 60, 61, 62). Hiện bị cáo đi lại khó khăn phải có sự trợ giúp của gia đình; không tự lao động được, để Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999; căn cứ vào Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có mức hình phạt quy định thấp hơn mức hình phạt quy định tại Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999; căn cứ vào Công văn 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét về hình phạt cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ theo điểm g (phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn) khoản 1 Điều 46 là không căn cứ nên Hội đồng không chấp nhận.

Bị cáo không có nghề nghiệp nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo là tang vật của vụ án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự; Điều 76; Điều 99, Điều 231, Điều 234 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Lê Xuân H 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. (được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/5/2017 đến ngày 08/5/2017).

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong mép dán có chữ ký của Giám định viên Phạm Đình Đạo, người làm chứng Nguyễn Hữu Dũng và dấu vân tay ngón trỏ phải của Lê Xuân H.

Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/8/2017 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông).

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 174/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:174/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;